Điều gì đã bị sách sử lờ đi ...

Article Index

bible(Lịch sử im lặng về điều gì...)

Chúng ta mỗi người một khác, kẻ thích tìm hiểu lịch sử, người lại không mảy may thích thú gì, cho rằng nó thật là buồn tẻ và khô khan. Không phải ai cũng ghi nhớ được ngày, tháng với những tên người, địa danh.... Chẳng phải ai cũng cho rằng chúng có ý nghĩa. Thật là sai lầm, bởi lẽ lịch sử đâu có nghĩa chỉ là quá khứ. Lịch sử là cội nguồn. Lịch sử là gốc, là rễ của “cây” cuộc đời hiện tại của ta, là nguyên nhân của những sự kiện ngày nay đang xảy ra.

Tương lai của chúng ta có được phước hạnh, thịnh vượng hay không, điều đó phụ thuộc vào việc chúng ta có biết lịch sử, có hiểu lịch sử không. Cuộc đời, sự nghiệp các bậc anh hùng trong lịch sử khiến thành hình trong chúng ta nhận định về bản thân mình: “Tôi là con cháu của những người nô lệ” hay “Tôi xuất thân từ một dân tộc chiến thắng!”. Điều đó cũng đúng với những người tin Chúa. Song, tiếc thay, phần đông những người tin Chúa biết rất ít về lịch sử Hội Thánh (nếu có biết). Từ xưa người ta đã khôn ngoan nhận biết: dân tộc nào không biết lịch sử của mình, dân tộc đó chắc chắn sẽ lặp lại sai lầm trong quá khứ. Nhưng dân sự của Đức Chúa Trời không phải là con sóc để chạy mãi trong cái bánh xe của những sai lầm và hụt hẫng. Bởi lý do đó, chúng ta sẽ cùng đắm mình vào trong quá khứ vì cớ tương lai.

Ngược dòng lịch sử

Chúng ta bắt đầu từ những ngày đầu tiên, từ thời Hoàng đế La-mã Côn-xtan-tin, lên ngôi năm 313 SCN, đã chấm dứt việc bắt bớ Cơ đốc nhân, và không bao lâu sau đưa đạo Cơ đốc thành Quốc Giáo. Các sử gia lịch sử Hội Thánh đều có ý kiến cho rằng không một sự bắt bớ nào dưới thời các Hoàng đế La-mã như Nê-rôn, Tơ-rai-an, Đê-si, Đi-ốc-lê-ti-an lại đem đến cho Hội Thánh biết bao thiệt hại nhiều như việc công nhận đạo Cơ đốc là Quốc Giáo. Trước đó Hội Thánh ở trong thế gian, sau đó thế gian ùa vào Hội Thánh.

Ngoài ra, Hoàng đế Côn-xtan-tin còn làm một việc quan trọng nữa: chuyển thủ đô từ Rô-ma (La-mã) sang Bi-giăng-tin. Sau đó thành này được đổi tên thành Côn-stan-ti-nô-plơ. Chắc hẳn Côn-xtan-tin đã không thể đoán trước được là hai thành phố thủ đô này về sau sẽ trở thành biểu tượng của Tây và Đông, sự chống đối giữa chúng sẽ xác định cuộc sống của cả thế giới.

Đế quốc La-mã chia làm đôi, Đông và Tây. Ngay vào năm 395 ở hai thủ đô đã xuất hiện hai Hoàng đế: ác-ca-đi và Gôn-nô-ri, các con trai của Phê-ô-đô-xi Đại Đế. Khoảng gần một trăm năm sau, vào năm 483, Hoàng đế cuối cùng của La-mã đã bị giết. Đế quốc Tây La-mã chấm dứt tồn tại. Song, Hội Thánh đã không chấm dứt hoạt động, ngược lại, Đế quốc La-mã Thánh đã ra đời, Đế quốc này một mặt dưới quyền của Giáo hoàng, mặt khác dưới quyền của một loạt các ông hoàng Giéc-manh. Như thế có nghĩa là xét về mặt nào đó, cùng một lúc có hai chính quyền. Nói chính xác hơn, có chính quyền “trên trời” và có chính quyền “dưới đất”. Đế quốc Đông La-mã tồn tại lâu hơn Tây La-mã gần một nghìn năm. Trong Đế quốc Đông La-mã vẫn còn lại trật tự như trước, nghĩa là Hội Thánh nằm dưới quyền Hoàng đế, được coi là “người được Đức Chúa Trời xức dầu”. Chính cơ cấu nhà nước của Hội Thánh phía Đông này đã được nước Nga học tập khi tiếp nhận Cơ đốc giáo.


Lý do để có phép lạ

Cho đến trước thời điểm Công vương Vla-đi-mia- Người làm báp tem cho nước Nga Ki-ép - quyết định lấy đạo Cơ đốc làm Quốc giáo thì thế giới Cơ đốc đã chia làm hai phần: Đông và Tây.

Thật khó đánh giá hết công lao hai anh em Ki-rin và Mê-phô-đi trong sự phát triển của Hội Thánh phía Đông, họ xứng đáng được gọi là sứ đồ của người Xla-vơ.

Tất nhiên, hai người này không phải là những người thường. Người em, Ki-rin, vốn được người đời gọi là “triết gia” vì sự khôn ngoan.

Sự kêu gọi họ hầu việc Chúa đến từ miền đất thời nay chúng ta gọi là Đông Âu- nước Mô-ráp, một nước nằm giữa Séc, Slô-va-ki-a và Ba-lan ngày nay. Sự thể là Công vương Rô-xti-xláp nước Mô-ráp đã đề nghị Côn-xtan-ti-nô-plơ cho người dịch Kinh thánh ra tiếng Xla-vơ. Đó là một lời đề nghị lạ lùng! Thứ nhất, người Xla-vơ còn chưa có chữ viết để mà dịch ra! Thứ hai, sao lại không tìm các giáo sư trong số các giáo sĩ lừng danh khắp thế giới của Rô-ma? Vì đâu mà Rô-xti-xláp không hỏi Rô-ma mà lại hỏi Côn-xtan-ti-nô-plơ. Bởi vì thời đó người Giéc-manh làm chủ trên khắp Châu Âu và họ tìm mọi cách lôi kéo, xáp nhập Đông Âu, xứ của dân Xla-vơ vào lãnh thổ của họ. Các giáo sĩ Công giáo dù giảng bằng ngôn ngữ gì cũng chỉ thờ phượng bằng tiếng La-tinh ở các nước đã được truyền bá đạo Cơ đốc. Điều đó đảm bảo cho họ một sự thống nhất, và gây ảnh hưởng chính trị qua ảnh hưởng thuộc linh. Nước Mô-ráp không muốn cả ảnh hưởng thuộc linh lẫn ảnh hưởng chính trị của các quốc gia Giéc-manh, những nước quen hành động xấc xược. Còn việc liên quan đến văn viết và chữ viết Xla-vơ thì... Công vương đã đề nghị để các giáo sĩ tự phải phát minh ra chữ cái để thực hiện bản dịch! Công việc này đã kết thúc một thời gian ngắn trước năm 864. Đối với người thời nay thì đây là phép lạ kỳ diệu.

Một tu sĩ có tên là Hráp-rơ đã nói khi so sánh việc lập bảng chữ cái Hy-lạo và bảng chữ cái Xla-vơ: “Người Hy-lạp vốn không có bảng chữ cái riêng, họ đã dùng các ký tự của người Phi-ni-ki. Về sau Pa-la-mét, bắt đầu từ “an-pha” và “bê-ta”, đã chỉ tìm cho người Hy-lạp được 16 chữ cái. Kát-mơ xứ Mi-lét đã bổ sung thêm vào số đó ba chữ cái... Cứ như vậy nhiều người sau nhiều năm cố gắng mãi mới thu thập đuợc 38 chữ cái. Sau đó, nhiều năm trôi qua, theo mạng lệnh của Đức Chúa Trời đã tìm ra được 70 người dịch Kinh thánh từ tiếng Do thái sang tiếng Hy-lạp. Còn đối với người Xla-vơ thì chỉ có một thánh đồ Ki-rin thôi mà đã một mình chỉ trong một vài năm đã vừa lập bảng chữ cái, vừa dịch trọn bộ Kinh thánh”.


Ngôn ngữ và đức tin

Hai anh em Ki-rin thông thạo cả hai thứ tiếng: Hy-lạp và Xla-vơ. ở Sa-lôn-ny (Tê-sa-lô-ni-ca) họ sống giữa vòng người Xla-vơ. Sau đó, khi đến xứ Mô-ráp, họ đã xét đến cả khẩu ngữ địa phương, lẫn những điểm đặc biệt của thổ ngữ của các vùng Xla-vơ phía Nam. Trong bản dịch bốn sách Tin Lành, sách Công vụ các sứ đồ và Thi thiên họ đã truyền đạt được tất cả các sắc thái của nguyên bản tiếng Hy-lạp. Những bản dịch này không chỉ mang ý nghĩa về sự xuất hiện của ngôn ngữ văn học Xla-vơ, mà còn mang ý nghĩa sự hình thành ngôn ngữ Xla-vơ ở mức độ phát triển cao như tiếng Hy-lạp trong nguyên bản, mặc dù tiếng Hy-lạp là kết quả của sự phát triển liên tục của văn chương trong nhiều thế kỷ.

Giá trị lao động của hai anh em này còn ở chỗ họ không định hướng theo Cơ đốc giáo Đông hay Tây, mà định hướng theo Cơ đốc giáo nguyên thuỷ.

Hai anh em đã nhìn nhận lao động mình như sự hầu việc Chúa, nếu không thì họ đã không thể hoàn thành việc này! Họ đã chống lại quy định của nhà thờ Công giáo lúc đó là Kinh Thánh chỉ được chép bằng những thứ tiếng đã được viết trên thập tự của Chúa Giê-xu, đó là tiếng Do thái, tiếng La-tinh và tiếng Hy-lạp. Song, hai anh em đã tin chắc vào điều ngược lại:”Mưa của Đức Chúa Trời há chẳng đổ xuống cho tất cả mọi người sao? Mặt trời há chẳng chiếu sáng cho tất cả mọi người ư? Sao anh em không cảm thấy xấu hổ khi dạy dỗ là Kinh thánh chỉ dùng ba thứ tiếng, còn tất cả những dân tộc khác đành mù và điếc vậy sao?!”.

Ki-rin khôn ngoan muốn bảo vệ bản Kinh Thánh tiếng Xla-vơ gia trước Toà Thánh La mã (Rô-ma). Và ông đã nghĩ ra một kế: đó là cần nhận được sự chúc phước từ chính Giáo hoàng! Vào thời kỳ đó người ta ráo riết săn lùng “di hài của các thánh” (còn gọi là "thánh tích" - BBT). Ki-rin đã tìm được chỗ chôn các phần sót lại từ thân thể thánh Climent thành Rô-ma, người vốn được biết đến là đã bị chết chìm và nghe đâu được chôn cất gần Hẹc-xôn. Trên mộ ông ta Ki-rin đã phát hiện thấy hình vẽ chiếc mỏ neo, khiến sự khám phá càng mang tính chuẩn xác. Song, Ki-rin không quan tâm đến sự chuẩn xác của “di hài”, mà ông chỉ quan tâm đến việc thông báo cho Giáo hoàng là sẽ đưa những phần thân thể đó về Rô-ma. Cuộc gặp gỡ tại thành Rô-ma diễn ra long trọng: chính Giáo hoàng đã ra gặp họ với đoàn tuỳ tùng đông đảo, hào nhoáng. Giáo hoàng chúc phước cho thánh tích quý giá này, ngay khi đó Ki-rin liền xin Giáo hoàng chúc phước cho bản dịch của mình. Ông đã nhận được điều mình xin!

Về sau, sau khi Ki-rin qua đời (ông mất khi tuổi đời mới 43), Rô-ma (La mã) coi Mê-phô-đi là “tà giáo” vì cuốn tập đọc tiếng Xla-vơ của ông. Theo lệnh của các quý tộc Giéc-manh, Mê-phô-đi bị tống ngục. Đặc biệt là các môn đồ của Ki-rin và Mê-phô-đi đã bị bắt bớ, săn lùng dã man. Họ bị đánh đập tơi bời và bị đuổi từ nước Mô-ráp qua Bun-ga-ri, ở đó họ được tiếp đón nồng nhiệt như những “bậc khai sáng” cho người Xla-vơ. Cho đến ngày nay, ngày hội lớn nhất của xứ Bun-ga-ri là Lễ hội Ki-rin và Mê-phô-đi. Qua Bun-ga-ri bản dịch Kinh thánh tiếng Xla-vơ đã vào nước Nga Ki-ép (tức là nước Nga sơ khởi, bắt nguồn từ cái nôi là Ki-ev - BBT).


Sự khai sáng

Vậy đó, nhờ có bản Kinh thánh tiếng Xla-vơ, nhờ lao động quên mình và sự trung tín của hai anh em đầy ơn phước Ki-rin và Mê-phô-đi mà Tin Lành đã vào được nước Nga qua ngôn ngữ dân dã và dễ hiểu. Không thể đánh giá hết được tầm quan trọng của sự kiện này. Chỉ cần nói là tất cả các dân tộc khác ở châu Âu chỉ đến thời kỳ Cải Chánh hoặc không lâu trước đó mới được đọc các sách Tin Lành bằng tiếng mẹ đẻ của mình:

bản dịch tiếng Anh của Uých-li-phơ vào năm 1380;

bản dịch tiếng Tiệp của Yan-na Gu-xơ vào năm 1400;

bản dịch tiếng Đức của Mác-tin Lu-thơ sau năm 1520.

Từ đó suy ra một số kết luận rất thú vị và khác thường:

1. Trong dân gian đã xuất hiện sự tin quyết sâu sắc và sống động rằng người Nga đã tiếp nhận niềm tin Cơ đốc không phải từ người Hy-lạp, mà từ chính Đức Chúa Trời.

(Chính tư tưởng đó đã được Tổng Giám mục Ki-ép I-la-ri-ôn tuyên bố vào năm 1051.) Nói vậy nghĩa là việc làm phép báp-tem cho nước Nga vào năm 988 không dẫn đến việc xáp nhập nước Nga vào Đế quốc Bi-giăng-tin, mà dẫn đến sự hình thành nhận thức Xla-vơ đặc biệt. Sự truyền bá Tin Lành trở thành sự phấn hưng tâm linh của dân tộc Xla-vơ.

2. Ngay từ ban đầu, Cơ đốc giáo ở nước Nga đã có cơ hội phát triển cả ở dạng lễ nghi tôn giáo lẫn ở dạng Tin Lành, nghĩa là trực tiếp thông công và nhận thức Đức Chúa Trời qua Lời Ngài (Kinh thánh).

Các Công vương của nước Nga Ki-ép đã làm hết sức mình để Tin Lành được phổ biến sâu rộng trong vòng dân chúng. Ví dụ như dưới triều của Công vương Y-a-rô-xláp Khôn Ngoan đã có cả một học viện tâm linh: hàng chục người chép sách đã miệt mài chép Kinh Thánh và các sách tâm linh, ở đây cũng có cả những dịch giả mới; trẻ em thì học đánh vần và ngữ pháp theo sách Thi thiên. Bản thân Công vương rất thích đọc văn phẩm tâm linh nên thúc giục mọi người xung quanh làm theo. Công vương Vla-đi-mia Mô-na-ma-khơ cũng hành động tương tự.

Bạn có biết thời đó giá một quyển sách Tin Lành (Phúc Âm) là bao không? Các nhà nghiên cứu, khi tính cả giá da bê, công trang trí, công chép sách và thời gian bỏ ra, đã đi đến kết luận rằng giá đó xấp xỉ giá một con bò. Đắt thì đắt thật nhưng muốn mua thì vẫn có thể mua được!

Mi-kha-in Mô-lô-tốp
T.N.M. dịch từ tờ báo cơ-đốc "Tiếng Chuông"



© 1999-2017 Tinlanh.Ru