Trong một xã hội có nhiều thành phần, dân tộc, giai cấp, nếu nó không được xây dựng trên nền tảng đúng đắn là sự kính sợ Đức Chúa Trời, thì rất dễ dàng phát triển cái mà người ta gọi là phân biệt đối xử và kỳ thị chủng tộc.
Và trong xã hội đó bao giờ cũng sẽ có những người bị coi là nhóm người hạng hai. Tức là bị coi thường và đối xử còn kém hơn cả dân thường nữa. Họ chẳng được quyền lợi ngang hàng như những người khác, khi bị áp bức không được lên tiếng, và khi bị bất công chăng có ai bênh vực, mọi điều tiếng xấu đều đổ vào đầu của họ, và mặc dù trong mọi hoàn cảnh éo le như vậy, họ vẫn phải tự lo cho cuộc sống của mình.
Hình ảnh minh họa tương phản nhất trong Kinh thánh về nhóm người bị ruồng bỏ, phải sống ngoài lề xã hội, đó là những người bị bệnh phung (phong, hay còn gọi là bệnh cùi hay bệnh hủi).
Phung là một thứ bệnh thời xưa không biết thuốc chữa. Và vì thời đó sinh họat thiếu vệ sinh nên bệnh đó có thể lây lan sang người khác, cho nên người ta phải cách ly người phung ra, để không ảnh hưởng đến xã hội.
Người bị bệnh phung thì rất khổ, nếu bị phát hiện là có bệnh phung, người đó sẽ mất hết những gì mình có. Địa vị, nhà cửa, công việc, cuộc sống. Xã hội tẩy chay những người phung, thông thường là đẩy họ vào một khu vực đặc biệt để họ sống cách ly với xã hội, và lập những lệ luật để ngăn không cho người phung được tự do tiếp cận một cuộc sống chung bình thường. Những người phung chỉ có những người thân của họ và chính bản thân họ phải lo tìm cho mình con đường sống.
Khi một cộng đồng người nước ngoài đến ngụ cư với mục đích mưu sinh tại một đất nước nào đó, nhưng chưa thể (hoặc chưa hết lòng mong muốn) hòa nhập vào với phong tục và tập quán của xã hội đó thì chính những người dân bản xứ sẽ nhìn vào những sự khác biệt với thái độ xa lạ né tránh. Một phản xạ tự nhiên của cộng đồng lúc đó là tìm cách sống co cụm lại với nhau, còn xã hội xung quanh càng trở lên xa lạ và đôi lúc thù nghịch nữa. Vô hình chung, nếu không có sự tìm kiếm để hòa nhập, nhóm người đó sẽ bị xã hội bản xứ coi thường và đối xử như là với nhóm người hạng hai.
Điều đó là điều tự nhiên và xảy ra phổ biến ở các nơi, nếu như trong xã hội không có luật pháp với một nền tảng là sự kính sợ Đức Chúa Trời và hệ thống tiêu chuẩn đạo đức dựa trên tinh thần Kinh thánh. Bởi vì, ngay từ thời Cựu Ước, Đức Chúa Trời đã có mạng lệnh dạy người dân Y-sơ-ra-ên phải tử tế với người ngoại bang đến kiều ngụ tại xứ họ, cùng phải đối xử nhân từ với những nhóm người yếu thế trong xã hội như người góa bụa hay mồ côi. Ý tưởng nhân từ đó cũng phải áp dụng cho những người bị phung, chỉ cách ly họ vì bệnh tật dễ lây, nhưng vẫn sẵn lòng tiếp đón họ trở lại một khi khỏi bệnh.
Xuất Ê-díp-tô 22
21 Ngươi chớ nên bạc đãi khách ngoại bang, và cũng chẳng nên hà hiếp họ, vì các ngươi đã làm khách kiều ngụ tại xứ Ê-díp-tô.
22 Các ngươi chớ ức hiếp một người góa bụa hay là một kẻ mồ côi nào.
Đức Chúa Trời có thương xót người phung không?
Lòng Chúa thương xót, bênh vực và giúp đỡ những người yếu thế, bị ruồng rẫy và coi thường trong xã hội chúng ta có thể càng rõ hơn qua hành động cư xử của Chúa Jê-sus – Con một của Đức Chúa Trời, trong thời gian Ngài sống trên đất. Vì Chúa Jê-sus là hình ảnh thấy được của Đức Chúa Trời không thấy được, cho nên khi nhìn vào những việc Chúa Jê-sus làm cho người này người khác trong Kinh thánh, chúng ta hiểu mình cũng được Đức Chúa Trời cũng muốn làm cho chúng ta những điều tương tự.
Chúng ta có thể đọc thấy câu chuyện về những người phung được Chúa Jê-sus thương xót và chữa lành trong các sách Tân Ước.
Lu-ca 5
12 Đức Chúa Jêsus đang ở trong thành kia, có một người mắc bịnh phung đầy mình, thấy Ngài thì sấp mặt xuống đất, mà nài xin rằng: Lạy Chúa, nếu Chúa khứng [muốn], chắc có thể làm cho tôi được sạch!
13 Đức Chúa Jêsus giơ tay rờ đến người ấy, mà phán rằng: Ta khứng [muốn], hãy sạch đi. Tức thì, bịnh phung liền hết.
Khi người phung này đến với Chúa với một nhu cầu là được chữa lành, được hòa nhập trở lại với cuộc sống bình thường trong xã hội, thì lúc đó trong lòng ông ta còn chưa chắc lắm về chuyện Chúa có muốn giúp mình hay không. Nhưng phản ứng của Chúa đã xóa đi hết những nghi ngờ nhỏ nhất còn lại. Ôi, giá như chúng ta nhận thức được điều này mỗi khi chúng ta đến cầu nguyện Chúa cho một nhu cầu nào đó của mình...
Ngài muốn!
Ngài chìa tay ra cho chúng ta!
Thậm chí Chúa chìa tay ra ngay lập tức, trước cả khi Ngài nói là Ngài muốn!
Và Ngài chữa lành cho chúng ta!
Không phải chỉ một người, mà bất kỳ ai đến cùng Chúa.
Lu-ca 17
12 Nhằm khi vào làng kia, có mười người phung đến đón rước Ngài, đứng đằng xa,
13 lên tiếng rằng: Lạy Jêsus, lạy Thầy, xin thương xót chúng tôi cùng!
14 Khi Ngài thấy họ liền phán rằng: Hãy đi, tỏ mình cùng thầy tế lễ. Họ đang đi thì phung lành hết thảy.
Những điều nói trên thực ra vẫn chỉ là chuyện nhỏ, so với cả những gì Chúa Jê-sus đã làm cho cả loài người chúng ta. Điều lớn hơn và cao cả hơn, đó là Ngài đã đến chịu chết để cứu chuộc chúng ta khỏi tội lỗi, và trả lại cho chúng ta địa vị là con cái Đức Chúa Trời. Con người từ mọi dân, mọi tầng lớp xã hội luôn là bình đẳng trước mắt Ngài.
Chỉ có một điểm cần để ý, vì đây là chìa khóa để ta có thể nhận được sự giúp đỡ Chúa. Vì không phải người phung nào cũng được lành cả, vì chúng ta đọc thấy:
Lu-ca 4:27 Trong đời đấng tiên tri Ê-li-sê, dân Y-sơ-ra-ên cũng có nhiều kẻ mắc tật phung; song không có ai lành sạch được, chỉ Na-a-man, người xứ Sy-ri mà thôi.
Vậy thì những người phung nào sẽ được lành? Nếu chỉ có Na-a-man được lành, thì chúng ta hãy đọc câu chuyện của Na-a-man... trong sách Các Vua thứ hai, chương 5:
2 Các vua 5:1 Na-a-man, quan tổng binh của vua Sy-ri, là một người có quyền trước mặt chủ mình, được tôn trọng lắm, bởi vì Đức Giê-hô-va dùng người giải cứu dân Sy-ri; người này vốn mạnh mẽ và bạo dạn, song bị bịnh phung.
Khi được nghe qua người hầu trong nhà mình về tiên tri của Đức Chúa Trời, ông đã tìm đến Chúa. Khi đến gặp tiên tri và được nghe lời phán chỉ cách nào ông sẽ được lành, đầu tiên ông ta nổi giận không muốn tuân theo, nhưng khi vâng lời thì lập tức được chữa lành.
2 Các vua 5:14 Người bèn xuống sông Giô-đanh, và tắm mình bảy lần, theo như lời truyền của người Đức Chúa Trời. Người liền được sạch, và thịt người trở nên như trước, giống như thịt của một đứa con nít nhỏ.
Trong câu chuyện này, điều được nhấn mạnh nhất là con người biết hạ mình xuống và vâng phục tin theo Đức Chúa Trời, thì sẽ được thương xót.
Người phung có đức tin và có sự vâng lời sẽ được lành!
Cũng có những lúc Đức Chúa Trời còn xử dụng những người phung nữa!
Vì họ có cách suy nghĩ khác với cả xã hội, có sự liều lĩnh của những người phải chiến đấu để sống còn, nên có một trường hợp trong Kinh thánh chúng ta đọc thấy nhờ những người phung mà xã hội Y-sơ-ra-ên đã được giải cứu.
Đó là câu chuyện xảy ra vào thời điểm quân Sy-ri kéo đến đóng trại bao vây thành Giê-ru-sa-lem. Sau một thời gian dài bị cắt đứt liên lạc với bên ngoài, mọi dự trữ trong thành phố đã cạn kiệt, và người ta sắp chết đói đến nơi. Nhưng vì quá run sợ nấp ở trong thành mà dân Y-sơ-ra-ên không thể ngờ được rằng Đức Chúa Trời đã sắm sẵn sự giải cứu cho họ rồi.
Chỉ cần có vài người phung đủ liều lĩnh để tiến về phía trại quân thù, Đức Chúa Trời đã khiến tiếng bước chân của họ thành tiếng của một đạo quân lớn, khiến cả đạo quân Sy-ri đồn nhau rồi kinh hoàng bỏ chạy tháo thân, để lại hết mọi lương thực và của cải mình đã cướp.
2 Các Vua 7
1 . Ê-li-sê bèn nói rằng: Hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ngày mai, tại giờ này, nơi cửa thành Sa-ma-ri, một đấu bột lọc sẽ bán một siếc lơ, và hai đấu lúa mạch sẽ bán một siếc lơ.
2 Quan cai nâng đỡ vua, đáp với người Đức Chúa Trời rằng: Dầu cho Đức Giê-hô-va mở các cửa sổ trên trời, điều đó há có được sao? Ê-li-sê đáp: Chính mắt ngươi sẽ thấy, nhưng ngươi không đặng ăn đến.
3 . Tại cửa thành có bốn người phung nói với nhau rằng: Chúng ta ngồi đây đến chừng chết mà làm chi?
4 Nếu chúng ta nhất định vào thành, thì ở đó có đói kém, và chúng ta sẽ chết đói: bằng chúng ta cứ ngồi đây, thì chúng ta cũng sẽ chết. Vậy, chúng ta hãy qua trại quân Sy-ri: Nếu họ dung thứ ta, thì ta sẽ sống; bằng họ giết đi, dẫu thế nào, chúng ta cũng sẽ chết đó thôi.
5 Vậy, lúc chạng vạng, các người phung chổi dậy đặng đi đến trại quân của sân Sy-ri; khi tới đầu trại quân, họ chẳng thấy ai ở đó hết.
6 Vì Chúa đã khiến trại quân Sy-ri nghe tiếng xe, ngựa và tiếng đạo binh lớn; nên nỗi dân Sy-ri nói với nhau rằng: Kìa, vua Y-sơ-ra-ên đã mướn vua dân Hê-tít và vua Ê-díp-tô đặng hãm đánh chúng ta.
7 Chúng liền chổi dậy, chạy trốn lúc chạng vạng, bỏ các trại, ngựa, và lừa mình, để trại quân mình như cũ; chúng trốn đặng cứu mạng sống mình.
8 Khi các người phung kia đến đầu trại quân, bèn vào trong một trại, ăn và uống; đoạn họ lấy bạc, vàng, và quần áo đem đi giấu. Chúng trở lại, vào trong một trại khác, ở đó, cũng lấy những của cải mà đem đi giấu luôn.
9 Bấy giờ, họ bèn nói với nhau rằng: Chúng ta làm chẳng phải; ngày nay là ngày có tin lành, và chúng ta nín lặng sao! Nếu chúng ta đợi đến rạng đông, thì sự hình phạt chắc sẽ lâm vào chúng ta. Vậy, ta hãy đi báo tin này cho nhà vua.
10 Chúng liền đi, gọi quân canh cửa thành, thuật cho họ rằng: Chúng tôi có đi đến trại quân Sy-ri, thấy chẳng có ai hết, cũng không nghe tiếng người nào; chỉ thấy những ngựa và lừa đang cột và những trại bỏ lại như cũ.11 Quân canh cửa bèn gọi người đi báo tin ấy vào trong đền vua.
12 . Vua chổi dậy ban đêm, nói với các tôi tớ mình rằng: Ta sẽ bày tỏ cho các ngươi điều dân Sy-ri toan làm cho chúng ta. Chúng nó biết chúng ta đói nên chi họ đã ra khỏi trại quân mình đặng phục trong đồng. Chúng nó đã nói nhau rằng: Khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi thành, chúng ta sẽ bắt sống chúng nó, rồi chúng ta sẽ vào trong thành.
13 Một người tôi tớ của vua thưa rằng: Kìa, ngựa còn sót lại cũng hao mòn như đoàn dân Y-sơ-ra-ên còn lại ở trong thành; về sau nó quả sẽ đồng số phận cùng đoàn dân đông đã chết mất. Vì vậy, ta hãy truyền lịnh cho người nào bắt năm con ngựa trong số còn lại đặng đi dò thám.
14 Vậy, chúng lấy hai cái xe thắng ngựa vào, rồi vua sai người đi theo đạo quân Sy-ri, mà rằng: Hãy đi xem.
15 Chúng đi theo họ cho đến Giô-đanh, thấy khắp dọc đường đầy những quần áo và đồ đạc mà quân Sy-ri đã quăng trong lúc chạy trốn hối hả. Các sứ giả trở về thuật lại cho vua hay.
16 Dân sự bèn kéo ra, cướp lấy trại quân Sy-ri, đến đỗi một đấu bột lọc bán một siếc lơ, và hai đấu lúc mạch cũng bán một siếc lơ, y như lời Đức Giê-hô-va đã phán.
17 Vua cắt quan cai nâng đỡ mình canh giữ cửa thành; nhưng dân chúng đạp dẹp người tại nơi cửa thành, và người chết, y như người của Đức Chúa Trời đã nói trước khi vua đến kiếm người.
18 Vả lại, việc xảy ra như lời người của Đức Chúa Trời đã nói với vua rằng: Ngày mai, tại giờ này, nơi cửa thành Sa-ma-ri, hai đấu lúa mạch sẽ bán một siếc lơ, và một đấu bột lọc cũng bán một siếc lơ;
19 rồi quan cai có đáp với người của Đức Chúa Trời rằng: Dẫu cho Đức Giê-hô-va mở các cửa sổ trên trời, điều đó há có được sao? Ê-li-sê bèn tiếp rằng: Mắt ngươi sẽ thấy điều đó, song ngươi không ăn đến.
20 Ấy là điều xảy đến; vì dân chúng đạp dẹp người dưới chân tại cửa thành, và người chết.
Câu chuyện này làm tôi liên tưởng đến những thời kỳ mà cộng đồng người Việt đã cùng phải lăn lộn sống còn với cả nước Nga mới, trong thời kỳ hậu Xô-viết. Nước Nga mới hình thành, hệ thống mậu dịch và công nghiệp nhẹ hầu như bị tê liệt, chính hình thức buôn bán tự phát đôi lúc quá liều lĩnh và đi trên rìa của luật pháp của cộng đồng người Việt đã phần nào đóng góp xây dựng được một mạng lưới mậu dịch tiểu thương mới, đáp ứng được nhu cầu của người dân nước Nga các tỉnh về hàng tiêu dùng. Chính sự chăm chỉ lăn lộn vất vả của cộng đồng đã cho người Việt có một chỗ đứng, nhưng cũng chính vì sự thiếu hòa nhập vào với trật tự xã hội, thiếu sự học hỏi ngôn ngữ và phong tục sống, mà cộng đồng vẫn bị xa lánh và ghẻ lạnh.
Chúng ta nhận thức rằng không phải là sau khi lập đại công nói trên mà những người phung được khen thưởng, và được xã hội vui mừng tiếp đón trở lại và đãi ngộ theo cách khác đâu, điều kiện để họ được tiếp nhận lại vào cộng đồng vẫn chỉ là khi nào họ được lành bệnh.
Nếu nói cách hình bóng, thì có thể chúng ta suy nghĩ và hành động như những người lạ của xã hội, dù ngụ cư ở giữa đất nước người mà không học hỏi để hòa nhập, thì cách sống cách nghĩ đó khiến chúng ta bị người ta xa cách. Chính cách nghĩ và cách sống của người phung có thể khiến chúng ta bị coi thường và đối xử như những người phung.
Bây giờ, nói riêng với nhau, khi chúng ta đã tin nhận Chúa Jê-sus và được Chúa thương xót rồi, hãy tập nghĩ theo cách mới, cách của một con người tự do, bình đẳng. Phải tập cho hoà mình vào xã hội, phải tập sống theo luật pháp và phong tục chung. Hãy tránh cách nghĩ tự ti và cô lập, thích làm liều của người phung. Vì rõ ràng là Chúa Jê-sus luôn luôn sẵn lòng giúp đỡ chúng ta.
Ma-thi-ơ 11
4 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: hãy về thuật lại cùng Giăng những điều các ngươi nghe và thấy:
5 kẻ mù được thấy, kẻ què được đi, kẻ phung được sạch, kẻ điếc được nghe, kẻ chết được sống lại, kẻ khó khăn được nghe giảng tin lành.
Chúa đã có chương trình cho chúng ta! Chúng ta phải tìm cách noi theo và sống theo chương trình của Chúa. Chúa sẽ giúp cho chúng ta và đất nước mà chúng ta đang sống chuyển mình vào giai đoạn mới, qua khó khăn chung, và sang trang mới. Với những người được Chúa chữa lành, cả trong tâm linh và tâm hồn, trong tư tưởng và trong phong cách sống.
Hãy nắm chắc tay Chúa để vượt qua khó khăn này và chịu thay đổi để đến với thành công!