ĐỨC THÁNH LINH TRONG BẠN

Article Index

derek1

ĐỨC THÁNH LINH TRONG BẠN TRƯỚC LỄ NGŨ TUẦN

Qua Kinh thánh chúng ta nhận được sự hiểu biết mà chúng ta không thể nhận được bằng cách nào khác. Một trong những khải thị quan trọng hàng đầu của Kinh thánh là bản tính của Đức Chúa Trời. Kinh thánh tiết lộ một sự mầu nhiệm mà chúng ta không thể nào biết được từ một nguồn gốc nào khác. Sự mầu nhiệm đó là Đức Chúa Trời. Ba hơn một, Ba Ngôi nhưng là một Đức Chúa Trời. Ba Ngôi được khải thị trong Kinh thánh là Đức Cha, Đức Con và Đức Thánh linh. Loạt bài nầy sẽ đề cập đến Đức Thánh linh.

Thân vị và công vụ của Đức Thánh linh là một trong những sự khải thị phong phú và rõ rệt trong toàn bộ Kinh thánh. Điều đầu tiên chúng ta phải hiểu là Đức Thánh linh chính là một thân vị giống y như Đức Chúa Con. Theo phép so sánh của loài người, thật dễ cho chúng ta nhận biết rằng Đức Chúa Trời là Đức Cha là một thân vị, Đức Chúa Trời là Đức Con là một Thân vị, nhưng không dễ để nhận thức rằng Đức Thánh linh cũng là một Thân vị.

Qua Đức Thánh Linh, Đức Chúa Trời biết mọi sự, không có điều gì che dấu khỏi Đức Chúa Trời và qua Đức Thánh linh Đức Chúa Trời hiện diện ở khắp mọi nơi cùng một lúc. Hai đặc tính nầy đã được mô tả bằng hai danh từ thần h ọc tương ứng là Vô sở Bất tri ( Toàn - tri), và vô sở Bất tại ( Toàn tại). Điều nầy đã được tiết lộ trong những khúc Kinh thánh khác nhau. Giêrêmi 23 : 23- 24, “ Đức Giêhôva phán : Ta có phải là Đức Chúa Trời ở gần mà không phải là Đức Chúa Trời ở xa sao? Đức Giêhôva phán : có người nào có thể giấu mình trong các nơi kín cho Ta đừng thấy chăng? Đức Giêhôva phán : há chẳng phải Ta đầy dẫy các từng trời và đất sao?”.

Đức Chúa Trời đầy dẫy từng trời và đất. Không có chỗ nào mà không có Đức Chúa Trời. Không có một nơi nào xảy ra mà Đức Chúa Trời không biết rõ. Đây là điều được tiết lộ cách đẹp đẽ trong phần mở đầu của Thi thiên 139 : 1-12.

“ Hỡi Đức Giêhôva, Ngài đã dò xét tôi và biết tôi, Chúa biết khi tôi ngồi, lúc tôi đứng dậy.
Từ xa Chúa hiểu biết ý tưởng tôi,
Chúa xét các nẽo đàng và sự nằm ngủ tôi,
Quen biết các đường lối tôi
Vì lời Chúa ở trên lưỡi tôi
Kìa, hỡi Đức Giêhôva, Ngài đã biết trọn hết rồi
Chúa bao phủ tôi phía sau và phía trước
Thật tay Chúa trên mình tôi....
Sự tri thức dường ấy, thật kỳ diệu quá cho tôi,
Cao đến nỗi tôi không với kịp !
Tôi sẽ đi đâu xa Thần Chúa?
Tôi sẽ trốn đâu khỏi mặt Chúa?
Nếu tôi lên trời, Chúa ở tại đó.
Ví tồi nằm dưới âm phủ, kìa Chúa cũng có ở đó
Nhược bằng tôi lấy cánh hừng đông
Bay qua ở tại cuối cùng biển
Tại đó tay Chúa cũng sẽ dẫn dắt tôi
Tay hữu Chúa cũng sẽ nắm giữ tôi
Nếu tôi nói : Sự tối tăm chắc sẽ che khuất tôi, ánh sáng chung quanh tôi trở nên đêm tối,
Thì chính sự tối tăm không thể che giấu chi khỏi Chúa. Ban đêm soi sáng như ban ngày,
Và sự tối tăm cũng như ánh sáng cho Chúa”.

Thật là những lời đẹp đẽ ! Sự tiết lộ về sự khôn ngoan vĩ đại của Đức Chúa Trời thật kỳ diệu biết bao. Sự hiện diện của Đức Chúa Trời thẩm thấu toàn cả vũ trụ. Không có nơi nào mà bạn có thể chạy đi hay trốn khỏi Đức Chúa Trời. Không có khoảng cách nào có thể phân cách bạn khỏi Ngài. Không có bóng tối nào có thể che lấp bạn khỏi Ngài, Đức Chúa Trời ở khắp mọi nơi, suốt cả toàn thể vũ trụ, Ngài biết tất cả mọi điều xảy ra ở khắp mọi nơi.

Chìa khóa để khai mở bí mật là nằm ở câu 7, là chỗ tác giả Thi thiên nói rằng : “ Tôi sẽ đi đâu xa Thần Chúa? Tôi sẽ trốn đâu khỏi mặt Chúa?. Đây là một thí dụ điển hình về thơ ca của người Hi - bá -lai, ở đó hai nửa câu thơ đều nói chủ yếu về một điều. Sự hiện diện của Đức Chúa Trời khắp cả vũ trụ là Đức Thánh Linh của Ngài. Qua Đức Thánh Linh, Đức Chúa Trời hiện diện khắp mọi nơi, và qua Đức Thánh linh Đúc Chúa Trời biết tất cả mọi sự đang xảy ra trong khắp cả vũ trụ, vào bất cứ lúc nào. Đức Thánh linh đã tích cực hành động trong vũ trụ từ lúc sáng thế trở đi. Thi thiên 33 : 6 cho chúng ta biết quá trình thực sự của sự sáng tạo : “ Các từng trời được làm nên bởi Lời Đức Giêhôva, cả cơ binh trời bởi hơi thở của miệng Ngài mà có”.

Chỗ mà bản tiếng việt dịch là “ hơi thở”, thì nguyên văn tiếng Hi - bá -lai là “ linh”. Câu nói có thể thay đổi cách đọc thành : “ Các từng trời được làm nên bởi Lời Đức Giêhôva, cả cơ binh trên trời bởi linh của miệng Ngài mà có”. Nói cách khác, hai tác nhân vĩ đại của sự sáng tạo đã tạo thành vũ trụ nầy là lời của Đức Chúa Trời và Linh của Đức Chúa Trời, hay là Đức Thánh linh.

Nếu chúng ta giở lại các câu đầu của Kinh thánh mô tả sự sáng tạo, chúng ta thấy việc nầy đã được tiết lộ trong nhiều chi tiết hơn : “ Vả, đất là vô hình và trống không, sự mờ tối ở trên mặt vực, Thần Đức Chúa Trời vận hành trên mặt nước. Đức Chúa Trời phán rằng : Phải có sự sáng, thì có sự sáng”. ( Sáng 1 : 2-3). Sự hiện diện của Thánh linh Đức Chúa Trời đã có mặt tại đó trong sự tối tăm vô hình, trong chỗ trống không, trong mặt vực. Chữ “ vận hành” ở đây gợi ý về một con chim. Nhiều lần trong Kinh thánh, Đức Thánh linh được nhận dạng như là chim bồ câu thiêng thượng. Ở đây chúng ta có chim bồ câu thiên đàng, là Đức Thánh linh đang bay lượn trên mặt nước tối tăm vô hình.

Câu 3 nói rằng : “ Đức Chúa Trời phán rằng : Phải có sự sáng, thì có sự sáng”. Ở đây một lần nữa, cả hai tác nhân của sự sáng tạo : Thánh linh của Đức Chúa Trời và lời của Đức Chúa Trời. Khi cả hai kết hiệp làm một, thì sự sáng tạo xảy ra. Khi nào Thánh linh của Đức Chúa Trời và Lời của Đức Chúa Trời có mặt, thì có một điều mới mẽ - trong trường hợp nầy là ánh sáng - được sáng tạo. Aùnh sáng hiện hữu, được hình thành bởi linh và lời của Đức Chúa Trời. Bạn có thể thấy rằng Đức Thánh Linh đã hoạt động trong vũ trụ từ lúc sáng tạo trở đi, và Ngài luôn luôn hiện diện ở khắp mọi nơi trong vũ trụ. Trong một ý nghĩa, Đức Thánh linh là tác nhân tích cực hiệu quả của Ba Ngôi Đức Chúa Trời.

Đức Thánh Linh đã cảm thúc và ban quyền năng cho tất cả những người của Đức Chúa Trời ở thời Cựu ước. Danh sách quá dài để ghi ra hết, nhưng chúng ta sẽ được đề cập đến một vài ví dụ. Thứ nhất là Bết - sa - lê - ên, người đã vẽ kiểu và tạo dựng trên hòm giao ước cùng những khí mạnh cho đền tạm của Môise. Đức Giêhôva phán trong Xuất Êdíp tô ký 31 : 2-3 “ Nầy, Ta đã kêu tên Bết - Sa - lê - ên, con trai của U - ri cháu của Hu - rơ, trong chi phái Giuđa. Ta đã làm cho người đầy dẫy Thần của Đức Chúa Trời, sự khôn ngoan, sự thông sáng, và sự hiểu biết để làm mọi thứ nghề thợ”.

Chính Thánh linh của Đức Chúa Trời đầy dẫy Bết salêên ban cho ông khả năng để tạo ra những sáng kiến thủ công kỷ xảo. Điều luôn luôn cảm động lòng tôi, chính ông là người đầu tiên trong Kinh Thánh được nói đến như là người đầy dẫy Đức Thánh Linh. Kết quả, trong trường hợp của ông là nghề thợ thủ công. Điều nầy tăng giá trị rất cao cho nghề thợ thủ công.

Trong Phục truyền 34 : 9, chúng ta đọc thấy về Giôsuê : “ Giôsuê, con trai của Nun, được đầy dẫy Thần khôn ngoan ( một cách nói khác về Đức Thánh Linh), vì Môise đã đặt tay mình trên người. Dân Ysơraên bèn vâng lời người và làm theo điều Đức Giêhôva đã phán dặn Môise”. Giôsuê là một nhà đại lãnh tụ quân sự đã chinh phục Đất Hứa, và ông đã làm điều đó bởi vì đã được đầy dẫy Thánh linh của Đức Chúa Trời.

Chúng ta đến với Ghêđêôn ở sách Quan xét 6 : 34 “ Thần của Đức Giêhôva cảm hóa Ghêdêôn, người thổi kèn, các người A- bi - ê- xê- rít bèn hiệp lại đặng theo người”. Thánh linh của Đức Chúa Trời đã giáng trên Ghêđêôn và khiến ông thành một lãnh tụ mạnh mẽ. Trước đó, ông vốn là thanh niên nhút nhát đập lúa mạch nơi bàn ép, không làm được gì nên chuyện, nhưng ông đã được biến đổi nhờ Thánh linh của Đức Chúa Trời cảm hóa ông. Chúng ta đọc về Đavít một vị vua vĩ đại và là tác giả Thi thiên, trong 2 Samuên 23 : 1-2 : “ Nầy là lời sau hết của Đavít. Nầy là lời của Đavít, con trai Y - sai tức là lời của người được dâng lên cao thay, đấng chịu xức dầu của Đức Chúa Trời Giacốp và làm kẻ hát êm dịu của Ysơraên Thần của Đức Giêhôva đã cậy miệng ta mà phán, và lời của Ngài ở nơi lưỡi miệng ta”.

Đavít đã cho chúng ta những Thi thiên đẹp đẽ đó bởi vì “ Thánh linh của Đức Giêhôva đã cậy miệng ta mà phán, lời của Ngài ở nơi lưỡi của miệng ta”. Cần lưu ý ở đây nữa, đây là linh của Đức Chúa Trời và lời của Đức Chúa Trời. Trong 2 Phierơ 1 : 21, Phirerơ ý gồm tóm chức vụ của tất cả các tiên tri Cựu ước khi ông nói : “ Vì chẳng hề có lời tiên tri nào là bởi một người nào mà ra, nhưng ấy là bởi Đức Thánh linh cảm động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời”. Mỗi một vị tiên tri mang đến một sứ điệp chân thật từ Đức Chúa Trời, đều không bao giờ nói ra hoặc sáng kiến riêng, hoặc theo sự suy nghĩ riêng lý luận riêng hay sư hiểu biết riêng, nhưng họ đã được cảm thúc ( thúc đẩy linh cảm, dẫn dắt) bởi Đức Thánh Linh điều đó khiến cho sứ điệp của ông không còn là của loài người, nó trở thành sứ điệp của chính Đức Chúa Trời.

Khi chúng ta nhìn xem thí dụ về những người nầy và những người khác, chúng ta đi đến kết luận rằng tất cả những người trong thời Cựu ước đã phục vụ Chúa cách đẹp lòng và có hiệu quả đều đã làm được điều đó thông qua quyền phép và sự linh cảm của Đức Thánh linh. Chắc chắn đây là một bài học cho chúng ta, họ không thể hầu việc Đức Chúa Trời cách có kết quả nếu không có Thánh linh thì chúng ta cũng vậy.


ĐỨC THÁNH LINH TRONG ĐỜI SỐNG CHÚA JÊSUS.

Trong phần nầy chúng ta sẽ xem xét Đức Thánh Linh trong chức vụ và sự dạy dỗ của chính Chúa Jêsus. Trước hết, chúng ta cần thấy rằng Giăng Báptít, là người đã đến đặc biệt để giới thiệu Chúa Jêsus và dọn đường cho chức vụ của Ngài, đã giới thiệu Ngài dưới một danh hiệu đặc biệt “ Đấng báptêm bằng Thánh linh”, Mathiơ 3 : 11 : “ Về phần ta, ta lấy nước mà làm Báptêm cho các ngươi ăn năn, song Đấng đến sau ta có quyền phép hơn ta, ta không đáng xách giày Ngài. Ấy là Đấng sẽ làm Báptêm các ngươi bằng Đức Thánh Linh và bằng lửa”.

Hãy để ý sự khác biệt giữa Chúa Jêsus và tất cả những người đã đến trước Ngài : “ Ngài sẽ làm báp têm cho các ngươi bằng Đức Thánh linh và bằng lửa”. Chúc vụ làm báptêm bằng Thánh linh nầy đã được nhắc đến trong tất cả bốn sách Tin Lành, Kinh thánh gắn liền tầm quan trọng vào việc nầy. Chúng ta cũng thấy rằng Đức Thánh Linh là nguồn quyền năng duy nhất cho toàn bộ chức vụ của Chúa Jêsus. Mãi cho đến khi Đức Thánh linh giáng trên Chúa Jêsus ở sông Giôđanh khi Giăng làm báp têm, thì Ngài đã chưa hề giảng hay làm một phép lạ nào, Ngài đã chờ đợi cho đến khi Đức Thánh Linh giáng trên Ngài.

Trong Công vụ 10 : 38, khi nói với đám đông đang tụ họp tại nhà Cọt nây, Phierơ đã mô tả chức vụ của Chúa Jêsus : “ Đức Chúa Trời đã xức dầu cho Đức Chúa Jêsus ở Naxarét bằng Đức Thánh linh và quyền phép, rồi Ngài đi từ nơi nọ qua chỗ kia làm phước và chữa lành hết thảy những người bị ma quỷ ức hiếp, và Đức Chúa Trời Ba Ngôi - Ba Thân vị trong một Đức Chúa Trời : Đức Cha, Đức Con và Đức Thánh Linh. Kết quả Ba Ngôi Đức Chúa Trời hành động trên bình diện con người là chữa lành : “....Ngài đi từ nơi nọ qua chỗ kia làm phước và chữa lành những người bị ma quỷ ức hiếp”. Đây là bí quyết và nguồn gốc về chức vụ của Chúa Jêsus.

Ngay cả sau khi phục sinh, Chúa Jêsus vẫn nương dựa nơi Đức Thánh linh. Đây là sự kiện đáng lưu ý. Trong sách Công vụ 1 : 1-2, Luca khởi đầu với lời nầy : “ Hỡi Thê -ô-phê-lơ, trong sách thứ nhất ta,ta từng nói về mọi điều Đức Chúa Jêsus đã làm và dạy từ ban đầu. Cho đến ngày Ngài được cất lên trời sau khi Ngài cậy Đức Thánh Linh mà răn dạy các sứ đồ Ngài đã chọn”.

Câu nầy đang nói về chức vụ của Chúa Jêsus trong 40 ngày giữa sự phục sinh và thăng thiên. Theo đó Chúa Jêsus dạy dỗ, chỉ dẫn các sứ đồ của Ngài thông qua Đức Thánh linh. Chúa Jêsus là gương mẫu qua chúng ta trong sự hoàn toàn nương dựa trên Đức Thánh Linh. Ngài đã nương dựa trên Đức Thánh Linh để có quyền năng cho những phép lạ của Ngài và cho sự dạy dỗ của Ngài, Ngài không làm gì cả ngoài Đức Thánh Linh. Sự thách thức của chức vụ Chúa Jêsus là một sự thách thức đối với chúng ta trong sự nương dựa Đức Thánh Linh như Ngài đã nương dựa v.v.

Chúa Jêsus không những đã được cảm động bằng quyền năng của chính Đức Thánh linh trải qua chức vụ của Ngài, nhưng ngài cũng hứa rằng các môn đồ của Ngài cũng sẽ nhận lãnh cùng một Đức Thánh linh đã từng ban quyền năng và linh cảm cho Ngài. Giăng 7 : 37- 39 “ Ngày sau cùng là ngày trọng thể trong kỳ lễ, Đức Chúa Jêsus ở đó, đứng kêu lên rằng : Nếu người nào khát, hãy đến cùng ta mà uống kẻ nào tin Ta thì sông nước hằng sống sẽ chảy từ trong lòng mình, y như Kinh thánh đã chép vậy. Ngài phán điều đó chỉ về Đức Thánh Linh mà người nào tin Ngài sẽ nhận lấy, bởi bấy giờ Đức Thánh linh chưa ban xuống vì Đức Chúa Jêsus chưa được vinh hiển”.

Đây là một sự tương phản kỳ lạ. Chúng ta trước hết được giới thiệu với một người khát nước : “ Nếu người nào khát”. Rồi, qua sự đến và ngự vào của Đức Thánh linh, chính con người nầy vốn đã từng khát nước và không thỏa mãn, không đầy đủ cho chính mình lại trở thành một ống dẫn cho “ sông nước hằng sống” Người nầy không còn thiếu thốn nữa, nhưng trở thành một nguồn cung cấp qua Đức Thánh Linh. Đối với mỗi người tín đồ, Đức Thánh Linh phải là một cội nguồn vô tận Sách Tin Lành tiếp tục làm sáng tỏ thêm rằng dù lời hứa nầy đã được ban cho trong chức vụ trên đất của Chúa Jêsus được vinh hiển. “ Bởi bây giờ Đức Thánh Linh chưa ban xuống, vì Chúa Jêsus chưa được vinh hiển”.

Trong Giăng 14 : 15-18, Chúa Jêsus phán với môn đồ của Ngài : “ Nếu các ngươi yêu mến Ta, thì gìn giữ các điều răn Ta. Ta sẽ nài xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngươi một Đấng Yên ủi khác, để ở với các ngươi đời đời tức là Thần Lẽ Thật mà thế gian không thể nhận lãnh được, vì chẳng thấy và chẳng biết Ngài, nhưng các ngươi biết Ngài, vì Ngài ở với các ngươi và sẽ ở trong các ngươi. Ta không để cho các ngươi mồ côi đâu, Ta sẽ đến cùng các ngươi”.

Có mấy điểm quan trọng chúng ta cần lưu ý ở đây. Trước hết, Chúa Jêsus phán : “ Cha......sẽ ban cho các ngươi một Đấng yên ủi khác”. Trong mạch văn, chữ “ khác” nầy có ý nghĩa gì? Nó có nghĩa là Chúa Jêsus như một người, đã từng sống với các môn đồ Ngài trong ba năm rưỡi. Ngài thực ra đã phán : “ Bây giờ, một con người ta sắp lìa khỏi các con. Nhưng ta đi thì một người khác, là Đức Thánh Linh sẽ đến thế chỗ cho Ta”. Thứ hai,Ngài dùng một chữ đặc biệt để mô tả Đức Thánh Linh mà bản dịch “ New International Version đã dịch là Đấng mưu luận ( bản Việt - nam dịch là Đấng Yên ủi). Từ ngữ ở đây là PARAKLETOS và những bản văn công giáo dịch là PARACLETE. Một PARACLETE, là một “ người nào đó được gọi tới bên cạnh để giúp đỡ”. Ở đây chúng ta có ba khái niệm liên hệ : Đấng Mưu luận, Đấng Yên ủi và Đấng giúp đỡ.

Thứ ba, Chúa Jêsus tiếp tục chỉ ra rằng Đức Thánh linh sẽ ở lại với các môn đồ mãi mãi.Lần nữa có một sự tương phản trong chính mối quan hệ của Ngài với các môn đồ. Ngài chủ yếu nói rằng : “ Ta đã ở cùng các con chỉ có ba năm rưỡi ngắn ngủi. Nay Ta sắp lìa khỏi các con và lòng các con tan nát. Các con có cảm tưởng là chính mình sắp bị rơi không ai giúp đỡ, nhưng ta sắp sai đến một Đấng giúp đỡ khác, là Đức Thánh linh. Và khi Ngài đến Ngài sẽ không bao giờ lìa bỏ các con. Ngài sẽ ở với các con đời đời”. Chúa phán : “ Ta không để các ngươi mồ côi đâu, Ta sẽ đến cùng các ngươi”. Ngụ ý ở đây nếu các tín đồ không có Đức Thánh Linh thì họ sẽ bị bỏ rơi giống như những kẻ mồ côi không ai chăm sóc, không ai giúp đỡ, không ai chỉ dạy. Nhưng qua Đức Thánh Linh, sự cung cấp đầy đủ đã được sắm sẳn cho họ.

Trong cùng một bài giảng đó, ở Giăng 6 : 7 Chúa Jêsus trở lại với chủ đề nầy : “ Dầu vậy, Ta nói cùng các ngươi : Ta đi là ích - lợi cho các ngươi, vì nếu Ta không đi, Đấng yên ủi không đến cùng các ngươi đâu, song nếu Ta đi thì Ta sẽ sai Ngài đến”. Đức Chúa Jêsus sắp ra đi, nhưng có một nhân vật khác sắp thế chỗ của Ngài. Trong Giăng 16 : 12-15, Chúa Jêsus trở lại lần nữa với chủ đề quan trọng nầy : “ Ta còn nhiều chuyện nói với các ngươi nữa, nhưng bây giờ điều đó cao quá sức các ngươi. Lúc nào Thần Lẽ Thật sẽ đến, thì Ngài sẽ dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật. ( Chúa Jêsus nhấn mạnh đến Thân vị của Đức Thánh Linh bằng cách dùng đại danh từ “ Ngài”) : Vì Ngài không nói tự mình, nhưng nói mọi điều mình đã nghe và bày tỏ cho các ngươi những sự sẽ đến. Ấy chính Ngài sẽ làm sáng Danh Ta, vì Ngài sẽ lấy điều thuộc về Ta mà rao bảo cho các ngươi vậy”.

Vì lời hứa nầy đã được ứng nghiệm, nên ngày nay Đức Thánh linh là vị đại diện thường trực của Ba Ngôi Đức Chúa Trời trên thế gian nầy. Ngài là Đấng thông giải, Đấng mặc khải và là Đấng quản lý cho Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Chúa Jêsus phán : “ Ngài sẽ lấy từ những gì thuộc về Ta và truyền đạt lại cho các ngươi”, nhưng Ngài còn thêm : “ Ta nói, những gì thuộc về Ta, bởi vì tất cả những gì Cha có thì thuộc về Ta”. Vì thế, Đức Thánh linh là Đấng thông giải, Đấng mặc khải và Đấng quản lý tất cả những gì của Đức Cha và Đức Con. Tất cả được bày tỏ thông giải và quản lý bởi Đức Thánh Linh.


ĐIỀU GÌ ĐÃ XẢY RA Ở LỄ NGŨ TUẦN?

Giăng Báptít đã giới thiệu Chúa Jêsus như là Đấng làm Báptêm bằng Đức Thánh linh. Đây là lời giới thiệu rất rõ ràng trong dân Ysơraên. Thứ hai, Đức Thánh linh là nguồn quyền phép cho cả chức vụ và sự dạy dỗ của Chúa Jêsus hoàn toàn dựa vào Đức Thánh Linh. Thứ ba, Chúa Jêsus đã hứa với các môn đồ của Ngài rằng khi chính mình Ngài trở lại thiên đàng, thì Ngài sẽ sai Đức Thánh Linh đến thế chỗ của Ngài như là vị đại diện của Ngài để làm PARACLETE ( Đấng mưu luân, Đấng Yên ủi hay Đấng giúp đỡ) của họ, tức Đấng được gọi đến bên cạnh để giúp đỡ họ.

Bây giờ chúng tôi muốn đề cập đến sự thực hiện lời hứa nầy của Chúa Jêsus. Đặc biệt, chúng ta sẽ xem xét những điều mới lạ kỳ diệu đã xảy ra khi Đức Thánh linh giáng xuống trong ngày Lễ Ngũ Tuần. Như nhiều lời hứa của Kinh Thánh, lời hứa về Đức Thánh Linh đã không được ứng nghiệm trong một biến cố đơn độc, trái lại nó đã được ứng nghiệm trong các giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất xảy ra vào ngày Chúa nhật phục sinh đầu tiên, tức là ngày Chúa Jêsus sống lại. Giăng 20 : 19 -22 “ Buổi chiều nội ngày đó, là ngày thứ nhất trong tuần lễ, những cửa mới các môn đồ ở đều đương đóng lại vì sợ dân Giuđa. Đức Chúa Jêsus đến đứng chính giữa các môn đồ mà phán rằng : Bình an cho các ngươi. Nói đoạn, Ngài giơ tay và sườn mình cho môn đồ xem ( Ngài đã tỏ ra Ngài cũng là Đấng đã bị đóng đinh). Các môn đồ vừa thấy Chúa thì đầy sự mừng rỡ. Ngài lại phán cùng môn đồ rằng : Bình an cho các ngươi, Cha Ta đã sai ta thể nào, Ta cũng sai các ngươi thể ấy. Khi Ngài phán điều đó rồi, thì hà hơi trên môn đồ mà rằng : Hãy nhận lãnh Đức Thánh linh”.

Câu 22 nêu lên một câu nói quan trọng. Chữ Hilạp về Đức Thánh Linh, Pneuma, cũng có nghĩa là hơi thở hay gió. Hành động hà hơi trên họ đã liên hệ đến những lời Chúa Jêsus đã phán, “ ......Ngài hà hơi trên các môn đồ và phán : Hãy nhận lãnh Đức Thánh linh” ( Đức Thánh Linh, hơi thở của Đức Chúa Trời). Tôi tin rằng đây là một trong những giai đoạn quan hệ và quyết định trong toàn bộ sự hoạt động của mục đích cứu chuộc của Đức Chúa Trời. Việc gì đã xảy ra vào thời điểm cảm động nầy? Trước hết vào thời điểm nầy những môn đồ đầu tiên đã bước vào điều mà chúng ta sẽ gọi là sự cứu rỗi Tân ước. Rôma 10 : 9 Phaolô đã đưa ra những đòi hỏi căn bản cho sự cứu rỗi : “ Vậy, nếu miệng ngươi xưng Đức Chúa Jêsus và lòng ngươi tin rằng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại, thì ngươi sẽ được cứu”. Giăng 20 : 19-22 là thời điểm đầu tiên mà các môn đồ đã thực sự tin rằng Đức Chúa Trời đã khiến Chúa Jêsus sống lại từ kẻ chết. mãi cho đến lúc đó, họ chưa bước vào sự cứu rỗi như đã được trình bày trong Tân ước. Vào lúc đó, khi họ xưng Chúa Jêsus là Chúa của họ, và họ tin rằng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại, thì họ được cứu với sự cứu rỗi của Tân ước,

Điều thứ hai đã xảy ra là các môn đồ đã được tái sanh hay sanh lại, họ đã trở thành một tân tạo vật họ đã vượt khỏi sự sáng tạo cũ để bước vào sự sáng tạo mời qua hơi thổ của Đức Chúa Trời hà vào. Để hiểu rõ điều nầy, chúng ta phải nhìn lại sự mô tả của sự sáng tạo loài người nguyên thủy trong Sáng thế ký 2 : 7 “ Giêhôva Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi, thì người trở nên một loài sanh linh ( hay một linh hồn sống). Sự sáng tạo đầu tiên về con người đã xảy ra khi Đức Chúa Trời hà linh của sự sống ( linh của sự sống hay Đức Thánh linh) vào thân hình bằng đất sét ở trên mặt đất. Hơi thở của Đức Chúa Trời ( Đức Thánh Linh) được hà vào đã biến đổi hình thể đất sét ấy trở thành một linh hồn sống. Tuy nhiên đoạn sách Giăng nói đến sự sáng tạo mới đã được Phaolô mô tả trong 2Côrinhtô 5 : 17 “ Nếu ai ở trong Đấng Christ thì nầy là người dựng nên mới” Có một sự sống trực tiếp giữa sự sáng tạo cũ và sự sáng tạo mới. Trong sự sáng tạo mới, Chúa Jêsus là Chúa và Cứu Chúa phục sanh, là Đấng đã chiến thắng tội lỗi, sự chết, địa ngục và Satan. Làm xong việc nầy, Ngài đã hiện ra với các môn đồ, hà vào họ hơi thở của sự sống Phục sinh. Đây là loại sự sống mới, một loại sự sống đã chiến thắng tất cả các lực lượng gian ác, sự chết và tội lỗi. Qua kinh nghiệm đó, các môn đồ đã vược qua khỏi trật tự cũ và đã bước vào sự cứu rỗi Tân ước, vào sự sáng tạo mới trong Đấng Christ, qua hơi thở sự sống phục sinh nhận được từ Chúa Jêsus.

Tuy nhiên, điều quan trọng cần hiểu là ngay cả sau khi kinh nghiệm Chúa nhật phục sinh nầy sự ứng nghiệm hoàn toàn về lời hứa của Đức Thánh linh vẫn chưa đến. Sau khi phục sinh, Chúa Jêsus đã phán với các môn đồ trong Luca 24 : 49 : “.....Ta đây, sẽ ban cho các ngươi điều Cha ta đã hứa, còn về phần các ngươi, hãy đợi trong thành ( Giêrusalem) cho đến khi được mặc lấy quyền phép từ trên cao”. Càng rõ rệt hơn, trong Công vụ 1 : 5 ngay trước khi thăng thiên về thiên đàng và gần 40 ngày sau Chúa nhật phục sinh, Ngài đã phán với họ : “ Vì chưng Giăng đã làm phép Báptêm bằng nước, nhưng trong ít ngày, các ngươi sẽ chịu phép báp têm bằng Đức Thánh linh”.

Qua lời nầy , chúng ta thấy rằng Chúa nhật phục sinh chưa phải là sự ứng nghiệm hoàn toàn của lời hứa. Như tất cả các nhà thần học và những nhà giải kinh đều đồng ý rằng sự ứng nghiệm hoàn toàn và chung cuộc đã xảy ra vào ngày Lễ Ngũ Tuần được mô tả trong Công vụ 2 : 1-4 : “ Đến ngày lễ ngũ tuần các môn đồ nhóm họp tại một chỗ. Thình lình, có tiếng từ trời đến như tiếng gió thổi ào ào, đầy khắp nhà môn đồ ngồi. Các môn đồ thấy lưỡi rời rạc từng cái một, như lưỡi bằng lửa hiện ra, đậu trên mỗi người trong bọn mình. Hết thảy đều được đầy dẫy Đức Thánh linh. Khởi sự nói các thứ tiếng khác theo như Đức thánh linh cho mình nói”.

Lễ Ngũ Tuần là sự biểu lộ thực sự và là sự ứng nghiệm của lời hứa. Đức Thánh linh đã từ trời giáng xuống, trong thân vị, trong hình thức một cơn gió lớn, đầy dẫy từng người một, và ban cho mỗi người một sự phát biểu mới mẽ, siêu nhiên trong một thứ tiếng mà họ chưa hề học tập. Ở cuối đoạn 2 của sách Công vụ nầy, Phierơ đã đưa ra lời giải thích thần học về điều đã xảy ra : “ Đức Chúa Jêsus nầy, Đức Chúa Trời đã khiến sống lại và chúng tôi thảy đều làm chứng về sự đó, vậy, sau khi Ngài đã được đem lên bên hữu Đức Chúa Trời và từ nơi Cha đã nhận lấy Đức Thánh linh mà Cha đã hứa ban cho, thì Ngài đó Đức Thánh linh ra như các ngươi đương thấy và nghe”.

Một lần nữa, cả Ba Ngôi Đức Chúa Trời có chép ở câu nầy. Chúa Jêsus là con, nhận lãnh Đức Thánh Linh từ Cha, và đổ Đức Thánh Linh ra trên những môn đồ đang chờ đợi trên phòng cao tại Giêrusalem. Vào thời điểm đó, sự ứng nghiệm chung cuộc, lời hứa về sự hiện đến của Đức Thánh Linh đã xảy ra. Chính Đức Thánh Linh đã được sai đi từ Trời bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con, đã giáng xuống trên những tín đồ đang chờ đợi.

Hãy lưu ý rằng ở thời điểm nầy, Chúa Jêsus không chỉ được sống lại nhưng Ngài cũng đã được tôn cao và đã được vinh hiển. Trong Giăng 7:37-39 đã chỉ ra rằng lời hứa về Đức Thánh Linh không thể ứng nghiệm cho đến khi Chúa Jêsus đã được vinh hiển. Chúng ta đã đối diện với hai Chúa nhật kỳ diệu , vinh hiển, sống động. Thứ nhất là Chúa nhật lễ Phục sinh, là lúc chúng ta có Đấng Christ phục sinh và Thánh Linh được hà hơi. Thứ hai, Chúa nhật lễ Ngũ tuần là lúc chúng ta có Đấng Christ đã được vinh hiển và Đức Thánh Linh đã được đổ tràn ra. Mỗi giai đoạn trên đây là một khuôn mẫu cho tất cả các tín đồ, thậm chí cho cả ngày nay.

Chúa nhật Đấng Christ Thánh Linh
Phục sinh Phục sinh được hà hơi
Chúa nhật Đấng Christ Thánh Linh
Ngũ tuần Vinh hiển đổ tràn ra

Bây giờ chúng ta sẽ tóm lược ý nghĩa vĩnh cửu của những biến cố mà chúng ta vừa xem xét vào ngày lễ Ngũ tuần, Đức Thánh Linh đã giáng xuống mặt đất như một thân vị (một người). Hiện nay Ngài là đại biểu thường trực của Ba Ngôi Đức Chúa Trời ở trên mặt đất. Dường như đây là một qui luật (Không thể giải thích nổi) là chỉ có một Ngôi trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời có thể thường trực trên mặt đất nầy trong từng giai đoạn. Trong một số năm Chúa Jêsus là con, có trên mặt đất. Nhưng khi Chúa Jêsus từ giã trở về thiên đàng, thì Ngài phán :”Một người khác sẽ đến thế chỗ của ta, và Ngài sẽ ở lại với các ngươi đời đời chứ không phải là vài năm ngắn ngủi đâu”. Lời hứa đó đã được ứng nghiệm vào ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Jêsus là Đức Chúa Con như một người đã trở về với Đức Chúa Cha ở thiên đàng. Rồi từ Cha và Con, Đức thánh linh đã giáng xuống thế chỗ cho Chúa Jêsus.

Bây giờ Đức Thánh linh sống ở đâu? Có hai câu trả lời : Trước hết, Ngài sống trong Hội thánh, Thân thể tập thể của Đấng Christ. Trong 1Côrinhtô 3 : 16, Phaolô nói : “ Anh em há chẳng biết mình là đền thờ của Đức Chúa Trời và Thánh linh của Đức Chúa Trời ở ( sống trong anh em sao?”. Đây là Đền thờ tập thể của Đức Thánh linh. Trong 1Côrinhtô 6 : 19 Phaolô bày tỏ rằng không chỉ thân thể tập thể của Đấng Christ là nơi cư ngụ của Đức Thánh linh, nhưng mục đích của Đức Chúa Trời là thân thể của mỗi tín đồ cũng là nơi cư ngụ của Đức Thánh linh : “ Anh em há chẳng biết rằng thân thể mình là Đền thờ của Đức Thánh Linh đang ngự trong anh em là Đấng mà anh em đã nhận bởi Đức Chúa Trời sao?

Đây là một câu nói gây chấn động nhất tìm thấy được trong Kinh thánh : Nếu chúng ta là những tín đồ của Chúa Jêsus, thì thân thể chúng ta là nơi ngự của Đức Chúa Trời là Đức Thánh Linh.


ĐẤNG GIÚP ĐỠ ĐANG NGỰ TRỊ TRONG CHÚNG TA

Nói một cách thực tế thì việc Đức Thánh linh đã đến làm Đấng Pacraclete của chúng ta có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Chúng ta sẽ bắt đầu nhìn lại với đoạn sách mà Chúa Jêsus đã đưa ra lời hứa đặc biệt nầy. Giăng 14 : 16 -18 “ Ta sẽ lại nài xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngươi một đấng Yên ủi khác ( paraclete) để ở với các ngươi đời đời, tức là Thần lẽ thật mà thế gian không thể nhận lãnh được, vì chẳng thấy và chẳng nhận biết Ngài. Nhưng các ngươi biết Ngài, vì Ngài vẫn ở với các ngươi ( bạn có thể thấy rằng đây là một lời hứa chỉ dành cho tín hữu chớ không dành cho thế gian). Ta không để cho các ngươi mồ côi đâu Ta sẽ đến cùng các ngươi”.

Chữ Paraclete, từ gốc Hilạp được dịch thoát sang tiếng Việt là “ Đấng yên ủi”. Trong nguyên văn có nghĩa là “ Một người được gọi đến bên cạnh để giúp đỡ. Một Paraclete là một người có thể làm điều gì đó cho bạn mà bạn không thể làm cho chính mình. Thật là thích thú chữ nầy cũng được dùng ở 1 Giăng 2 : 1 “ Hỡi con gái bé mọn Ta, ta viết cho các con điều nầy, hầu cho các con khỏi phạm tội. Nếu có ai phạm tội thì chúng ta có Đấng cầu thay ở nơi Đức Chúa Cha là Đức Chúa Jêsus Christ, tức là Đấng công bình.....”

Chữ “ Đấng cầu thay” là chữ gốc của Paraclete. Chữ “ Đấng cầu thay” ở đây trong Anh ngữ là Advocate Chữ Advocate phát xuất từ tiếng La - tinh: AD, đến VOCATE, đã gọi. “ Một người đã được gọi đến”. Trong hầu hết tất cả các ngôn ngữ phát xuất từ tiếng La-tinh, thì chữ “ Advocate” là một chữ dành cho một luật sư. Nó có nghĩa là một người đứng ra biện hộ, bênh vực. Chúng ta đều biết vai trò của luật sư, trạng sư lâu nay.

Kinh thánh tiết lộ 18 chân lý đẹp đẽ là chúng ta có đến hai vị Trạng sư, hay hai Đấng cầu thay. Trên mặt đất, Đức Thánh linh cầu thay cho chúng ta, những điều chúng ta không thể nói đúng thì Ngài nói cho chúng ta, điều chúng ta không hiểu thì Ngài giải thích cho chúng ta. Trên thiên đàng, Chúa Jêsus là Đấng bênh vực, cầu thay cho chúng ta với Đức Chúa Cha. Chúng ta hãy suy nghĩ, chúng ta có 2 Đấng biện hộ lớn nhất trong vũ trụ. Chúng ta có Chúa Thánh linh trên mặt đất và Chúa Jêsus ở thiên đàng. Với hai Đấng biện hộ như vậy, làm sao chúng ta thưa kiện cho được.

Hãy để tôi tiếp tục và diễn ý những gì Chúa Jêsus đã phán về Đấng cầu thay, tức là Paraclete : Đấng Yên ủi, Đấng mưu luân, Đấng biện hộ, Đấng giúp đỡ của chúng ta. Tôi sẽ giải nghĩa thêm một số điều Chúa Jêsus đã phán trong Giăng 14 : 16 -18 đã trích dẫn trước đây : “ Đức Chúa Cha sẽ ban cho các ngươi một Đấng Yên ủi khác”. Bạn phải hiểu tầm quan trọng của chữ “ khác” như ngụ ý đến một người. Chúa Jêsus phán : “ Ta là một người giúp đỡ của các ngươi trong khi Ta còn ở đây, nhưng bây giờ Ta sắp từ giã. Các ngươi không bị để lại mà không có ai giúp đỡ đâu nhưng có một người giúp đỡ khác sẽ đến”.

“ Ngài sẽ ở với các ngươi đời đời”. Chúa Jêsus phán : “ Ta đã từng ở cùng các ngươi trong ba năm rưỡi Ta sắp lìa xa các ngươi, nhưng đừng ngã lòng vì có một người khác sẽ đến thế chỗ của Ta, và Ngài sẽ chẳng bao giờ lìa bỏ các ngươi. Ngài sẽ ở với các ngươi đời đời”. “ Ngài vẫn ở với các ngươi và sẽ ở trong các ngươi”. Có một tầm quan trọng ở cụm từ : “ Trong các ngươi”. Đấng yêu ủi hay Đấng biện hộ nầy sẽ ở trong chúng ta, chúng ta sẽ là địa chỉ thường trú của Ngài.

“ Ta không để các ngươi mồ côi đâu, Ta sẽ đến cùng các ngươi”. Điều nầy rất quan trọng. Đấng Christ đến trở lại cùng các môn đồ Ngài trong Đức Thánh linh. Khi còn ở trên mặt đất trong thân thể Ngài, Chúa Jêsus chỉ có thể ở mỗi nơi một lúc. Ngài chỉ có thể nói chuyện với Phierơ, Giăng hay Mari Mađơlen mỗi người một lần, nhưng Ngài không thể nói chuyện với cả ba người, trong các cuộc đàm luận khác nhau, trong cùng một lúc Ngài bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Bấy giờ, khi Ngài trở lại với dân sự Ngài trong Đức Thánh linh thì Ngài được thoát khỏi sự hạn chế bởi thời gian và không gian. Ngài có thể ở tại Uùc - đại lợi nói chuyện với con cái Chúa đang có cần tại đó, Ngài có thể ở một nơi nào đó trong Sa mạc hay trong những rừng già Phi châu thêm sức hay chữa bệnh cho một giáo sĩ. Ngài không bị giới hạn. Ngài đã trở lại nhưng Ngài không còn bị phục dưới những giới hạn của không gian và thời gian.

Trong Giăng 16 : 5-7, Chúa Jêsus phán : “ Hiện nay Ta về cùng Đấng đã sai Ta đến ( Đức Cha) và trong các ngươi chẳng một ai hỏi Ta rằng: Thầy đi đâu? Nhưng vì Ta đã nói những điều đó cho các ngươi thì lòng các ngươi chan chứa sự phiền não. Dầu vậy, Ta nói cùng các ngươi : Ta đi là ích lợi cho các ngươi vì nếu Ta không đi, Đấng Yên ủi sẽ không đến cùng các ngươi đâu, song nếu Ta đi thì Ta sai Ngài đến” Đây là ngôn ngữ rất rõ ràng. Chúa Jêsus phán: “ Khi Ta còn ở với các ngươi trong con người trên đất, Đức Thánh Linh vẫn phải ở trên thiên đàng, như một con người. Nhưng nếu Ta ra đi như một con người thì, để thay thế chỗ của Ta, Ta sẽ sai một người khác đến, đó là Đức Thánh linh”. Đây là một sự thay đổi chỗ của những con người thiên thượng. Trong một thời gian, Đức Con ở trên mặt đất như một con người, rồi Ngài trở về thiên đàng với chức vụ đã hoàn tất. Để thế chỗ cho Ngài, Đức Thánh Linh ( một con người thiên thượng khác) đã đến để hoàn tất chức vụ mà Chúa Jêsus đã bắt đầu. Chúa Jêsus phán: “ Ta đi là có ích cho các ngươi”. Đây là một lời đáng ngạc nhiên. Chúng ta có Chúa Jêsus ở trên trời và Đức Thánh linh ở dưới đất thì tốt hơn, có ích hơn là có Chúa Jêsus trên đất và Đức Thánh linh trên trời. Rất ít người nhận thức được điều đó. Các Cơ đốc nhân thì nói : “ Giá mà tôi được sống vào những ngày khi Chúa Jêsus còn ở trên mặt đất”. Nhưng Chúa Jêsus lại nói : “ Từ nay các con sẽ được tốt hơn. Khi Ta ở thiên đàng và Đức Thánh linh ở trên đất, thì lúc ấy các con sẽ có được nhiều hơn là các con đang có bây giờ”.

Tôi xin giải nghĩa điều nầy trong ánh sáng kinh nghiệm của chính các môn đồ đầu tiên. Hãy để ý những gì đã xảy ra sau khi Đức Thánh linh giáng xuống. Có ba hiệu quả tức thời : trước hết, họ đã hiểu kế hoạch của Đức Chúa Trời và chức vụ của Chúa Jêsus tốt hơn là họ đã từng hiểu trong khi Chúa Jêsus còn ở trên mặt đất. Một sự kiện đáng lưu ý là họ đã rất chậm hiểu và hiểu biết rất giới hạn. Nhưng lúc Đức Thánh linh giáng xuống, họ đã có một sự hiểu biết hoàn toàn khác về chức vụ và sứ điệp của Chúa Jêsus.

Thứ hai, họ đã trở nên rất dạn dĩ, cực kỳ dạn dĩ. Ngay cả sau khi Chúa phục sinh, họ vẫn còn trốn lánh đằng sau những cánh cửa khóa chặt vì sợ người Do thái. Họ đã không sẵn sàng đứng lên để rao giảng hay công bố chân lý, họ cũng không được trang bị. Tuy nhiên, giờ phút Đức Thánh linh ngự đến, điều đó đã hoàn toàn thay đổi. Phierơ đã dạn dĩ và nói thẳng thừng với dân Do thái tại Giêrusalem về toàn bộ câu chuyện của Chúa Jêsus, đồng thời qui tội người Do thái đã đóng đinh Chúa.

Thứ ba, họ đã có được sự chứng thực siêu nhiên Ngay lúc Đức Thánh linh giáng xuống, các phép lạ bắt đầu xảy ra. Điều đó giống như là Chúa Giêxu đã trở lại với họ. Chúa Jêsus đã phán : “ Khi Đức Thánh linh đến, Ta sẽ trở lại với Ngài. Ta sẽ ở với các ngươi. Ta sẽ không để các ngươi mồ côi đâu”.


1. KHẢI THỊ LỜI ĐỨC CHÚA TRỜI.

Có những phương cách đặc biệt trong đó Thánh linh giúp đỡ chúng ta, an ủi chúng ta và đáp ứng các nhu cầu của chúng ta. Cách đặc biệt, thứ nhất chúng ta sẽ đề cập là sự khải thị lời Đức Chúa Trời Đức Thánh Linh là Đấng mặc khải và Đấng giải nghĩa lời của Đức Chúa Trời. Trong Giăng 14 : 25 -26, Chúa Jêsus phán với các môn đồ của Ngài : “ Ta đã nói những điều đó với các ngươi đang khi Ta còn ở cùng các ngươi. Nhưng Đấng Yên ủi ( paraclete) tức là Đức Thánh linh mà Cha sẽ nhơn Danh Ta sai xuống, Đấng ấy sẽ dạy dỗ các ngươi mọi sự, nhắc lại cho nhớ mọi điều Ta phán cùng các ngươi”.

Có hai nhiệm vụ của Đức Thánh linh trong câu 26 rất quan trọng : “ Ngài phải nhắc lại và Ngài phải dạy dỗ. Ngài phải nhắc lại cho các môn đồ tất cả những gì Chúa Jêsus đã từng dạy dỗ họ. Tôi hiểu điều nầy có nghĩa là bản văn ký thuật của các sứ đồ trong Tân ước không bị lệ thuộc vào sự yếu kém của ký ức loài người, nhưng đã được linh cảm bởi Đức Thánh Linh. Các môn đồ có thể đã không nhớ đích xác một số điều, nhưng bất cứ những gì họ cần nhớ thì chính Đức Thánh linh đã nhắc lại cho họ.

Tuy nhiên, Ngài không chỉ chăm lo đến quá khứ, Ngài còn lo đến cả tương lai. Ngài đã dạy họ mọi sự họ cần phải học. Điều nầy cũng đúng với chúng ta ngày nay. Ngài là Giáo sư hiện của chúng ta ngay trên mặt đất nầy. Chúa Jêsus đã là đại giáo sư khi Ngài còn ở trên mặt đất, nhưng bây giờ Ngài đã chuyển giao công tác đó cho Đức Thánh linh là đại diện của Ngài. Bất cứ điều gì chúng ta cần biết về Lời của Đức Chúa Trời, Đức Thánh linh đang ở đây để chỉ dạy chúng ta.

Điều nầy đã đặt các môn đồ lên một bình diện với các tiên tri Cựu ước. Trong 2Phierơ 1 : 21 “ Vì chẳng hề có lời tiên tri nào là bởi ý một người nào mà ra, nhưng ấy là bởi Đức Thánh linh cảm động mà người ta nói ra bởi Đức Chúa Trời”. Sự chính xác và thẩm quyền của các tiên tri Cựu ước là của Đức Thánh linh. Ngài chịu trách nhiệm về những gì họ nói khi Ngài cảm thúc trên họ. Ngài cảm động và thúc giục họ. Những điều nầy cũng đúng với các tác phẩm trong Tân ước. Chúa Jêsus quả quyết rằng Đức Thánh linh sẽ nhắc lại cho các môn đồ tất cả những gì Ngài đã phán, và sẽ dạy cho tất cả những gì họ cần biết đến. Đức Thánh linh là tác giả thật của Kinh thánh, cả Cựu ước lẫn Tân ước. Phaolô nói rõ điều nầy trong 2 Timôthê 3 : 16 : “ Cả Kinh thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình...”

Bản dịch khác dùng chữ “ hà hơi” hoặc “ linh cảm” những chữ nầy đều nói đến những hoạt động của Đức Thánh Linh. Đức Thánh linh là Đấng hà hơi vào cả Kinh thánh qua những ống dẫn loài người mà bởi đó Kinh thánh được viết ra. Sự cung ứng trọn vẹn của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta khiến lòng vui thỏa Đức Thánh linh là tác giả của Kinh thánh và Ngài cũng là giáo sư dạy Kinh thánh cho chúng ta. Như thể chính tác giả trở thành người giải nghĩa tác phẩm. Ai có thể giải nghĩa một cuốn sách tốt hơn là tác giả cuốn sách đó? Bản thân tôi đã viết hơn 20 quyển sách. Đôi khi tôi nghe người khác giải thích những sách của tôi và thường thường họ giải thích rất tốt, nhưng tôi luôn luôn suy nghĩ : “ Nầy, bạn hãy bỏ điều đó”, hoặc “ bạn chưa giải nghĩa đúng hoàn toàn”. Trong tình hình nầy, Đức Thanh linh vốn là tác giả Kinh Thánh, Ngài không bỏ sót điều nào, Ngài giải nghĩa đúng hoàn toàn nếu chúng ta có thể lắng nghe Ngài và nhận lãnh từ Ngài, chúng ta sẽ biết những gì Kinh thánh thật sự phán với chúng ta.

Sự bày tỏ Kinh thánh là một kết quả trực tiếp vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Khi Đức Thánh Linh giáng xuống, đám đông vô tín đã nói : “ Họ say rượu”, nhưng Phierơ đứng lên trong Công vụ 2 : 15-16 và nói rằng : “ Những người nầy chẳng phải say như các ngươi ngờ đâu, vì bây giờ mới là 9 giờ sáng. Nhưng ấy là điều Đấng tiên tri Giôên đã nói tiên tri....” Mãi cho đến giờ phút đó, Phierơ đã không hiểu được lời tiên tri của Giô- ên. Thực ra, ông đã có hiểu biết rất giới hạn, thậm chí cả về lời dạy dỗ của Chúa Jêsus. Nhưng giờ phút Đức Thánh linh đến, thì Kinh thánh có ý nghĩa cho ông một cách hoàn toàn mới, bởi vì tác giả ở đó để giải nghĩa cho ông. Điều nầy tương tự với sứ đồ Phaolô. Ông đã từng bắt bớ Hội thánh và từ khước những lời tuyên bố của Chúa Jêsus Trong Công vụ 9 : 17 : “ Anania bèn đi, vào nhà ( nơi Phaolô ở) rồi đặt tay trên mình sau lơ ( sau nầy là Phaolô) mà nói rằng : Hỡi anh Saulơ, Chúa Jêsus nầy đã hiện ra cùng anh trên con đường anh đi tới đây, đã sai tôi đến, hầu cho anh được sáng mắt lại và đầy Đức Thánh Linh”.

Lập tức, ngay sau đó Phaolô đã bắt đầu rao giảng trong các nhà hội rằng Chúa Jêsus là con của Đức Chúa Trời. Đó chính là điều ông đã từ khước. Nhưng giây phút Đức Thánh linh ngự đến, sự hiểu biết của ông hoàn toàn đổi khác, giống như từ tối tăm mà qua sáng láng. Đây không phải là sự diễn biến từ từ, bởi vì Đức Thánh linh là tác giả và giáo sư của Kinh thánh đã ngự trong Phaolô.

Khi nói về Đức Thánh linh như là Đấng giải nghĩa và Đấng mặc khải Lời của Đức Chúa Trời, chúng ta cần ghi nhớ trong tâm trí bằng không chỉ Kinh thánh là Lời của Đức Chúa Trời, nhưng chính Chúa Jêsus cũng được gọi là Lời của Đức Chúa Trời. Trong Giăng 1 :1, chúng ta đọc về Chúa Jêsus : “ Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời và Ngôi lời là Đức Chúa Trời”. Ba lần trong câu nầy Ngài được gọi là Lời. Giăng 1 : 14 “ Ngôi lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật. Chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của con một đến từ Cha”.

Kinh thánh là Lời thành văn của Đức Chúa Trời, nhưng Chúa Jêsus là lời hiện thân của Đức Chúa Trời và dĩ nhiên điều kỳ diệu là hai lời ấy đồng ý, hòa hiệp với nhau. Chúa Thánh Linh không chỉ bày tỏ và giải nghĩa Lời thành văn của Đức Chúa Trời, nhưng Ngài cũng bày tỏ và giải nghĩa lời thiên thần của Đức Chúa Trời là Chúa Jêsus. Đây là điều Chúa Jêsus đã nói về Đức Thánh linh trong Giăng 16 : 12-15. Câu 12 cho chúng ta biết Chúa Jêsus không nói tất cả bởi vì Ngài tin cậy Đức Thánh Linh và Ngài biết Đức Thánh linh sẽ đến. Rồi Ngài giải thích những gì Đức Thánh Linh sẽ làm khi Ngài đến.

Đức Thánh Linh lấy những điều thuộc về Chúa Jêsus và cho chúng ta được biết, Ngài tôn vinh Chúa Jêsus cho chúng ta. Ngài bày tỏ Chúa Jêsus trong sự vinh hiển của Ngài, trong sự toàn diện của Ngài, mọi khía cạnh của bản tính, phẩm cách và chức vụ của Chúa Jêsus đều được Đức Thánh linh bày tỏ cho chúng ta. Điều thích thú cần lưu ý là một khi Đức Thánh linh đã giáng xuống trên các sứ đồ và các môn đồ vào ngày Lễ Ngũ Tuần tại Giêrusalem, thì họ không bao giờ có bất cứ sự nghi ngờ gì khác về việc Chúa Jêsus đã ở đâu. Họ đã biết rằng Ngài đã đến bên hữu Đức Chúa Trời trong sự vinh hiển. Đức Thánh linh đã tôn vinh Chúa Jêsus cho các môn đồ. Ngài đã lấy những điều thuộc về Đấng Christ từ trong Kinh thánh từ ký ức của họ và từ những lần tiếp xúc của họ với Đấng Christ....... và Ngài đã bày tỏ ra cho họ.

Đức Thánh linh tỏ bày và tôn vinh Chúa Jêsus. Ngài cũng quản lý toàn bộ sự giàu có của Chúa Cha và Chúa con, bởi vì tất cả những gì Chúa Cha có thì sẽ được ban cho Chúa con, và tất cả những gì Chúa Con có thì Thánh linh quản lý điều hành. Nói cách khác, toàn thể sự giàu có của Ba Ngôi Đức Chúa Trời đều được Đức Thánh Linh quản lý, điều hành. Không có gì lạ khi chúng ta không phải là của chúng ta và tất cả sự giàu có của Đức Chúa Trời là do Ngài phân phát.


2. ĐƯỢC NÂNG LÊN MỘT BÌNH DIỆN SIÊU NHIÊN.

Hiệu quả chính yếu kế tiếp của sự giáng lâm Đức Thánh linh là chúng ta đã được nâng lên một bình diện siêu nhiên của sự sống. Có hai câu rất thích thú trong Hêbơrơ 6 : 4-5 mô tả về các Cơ đốc nhân theo tiêu chuẩn của Tân ước: “......những kẻ đã được soi sáng một lần, đã nếm sự ban cho từ trên trời” dự phần về Đức Thánh linh, nếm đạo lành của Đức Chúa Trời và quyền phép của đời sau.......” Có 5 điều nói về các tín đồ thời Tân ước:

1. Họ đã được soi sáng

2. Họ đã nếm biết ơn ban thiên đàng. Tôi tin rằng đây là ơn ban về sự sống đời đời trong Chúa Jêsus Christ.

3. Họ đã được dự phần trong Thánh Linh, hay họ đã thành người dự phần chia xẻ về Đúc Thánh linh.

4. Họ đã nếm biết sự tốt lành của Lời Đức Chúa Trời là Lời đã trở thành sống động và thực tế đối với họ.

5. Họ đã nếm biết quyền phép của đời hầu đến.

Tất cả các Cơ đốc nhân tin rằng trong đời hầu đến chúng ta sẽ có nhiệm vụ hoàn toàn khác, chúng ta sẽ được thoát ly khỏi nhiều sự giới hạn của thân thể chúng ta, chúng ta sẽ có một loại thân thể khác và một lối sống hoàn toàn khác. Nhưng nhiều Cơ đốc nhân không nhận biết rằng qua Đức Thánh linh chúng ta có thể nếm biết một ít về lối sống nầy ngay bây giờ, trong cuộc đời nầy. Chúng ta có thể “ nếm...quyền phép của đời sau”. Chúng ta chỉ có thể nếm biết chứ không chiếm hữu những quyền phép đó cách đầy trọn. Chúng ta biết được một ít về cuộc đời sắp đến sẽ ra sao ngay trong cuộc đời nầy.

Có một cụm từ rất thích thú đã được Phaolô dùng liên hệ đến điều nầy. Trong Eâphêsô 1 : 13-14 ông viết cho các tín hữu : “ Ấy lại cũng trong Ngài ( Đấng Christ) mà anh em sau khi nghe đạo chân thật là đạo tin lành về sự cứu rỗi anh em ( đây là những người đã nghe Tin lành và đã tin nhận). Ấy là trong Ngài mà anh em đã tin và được ấn chứng bằng Đức Thánh Linh là Đấng đã hứa ( Đức Thánh linh là ấn chứng của Đức Chúa Trời đóng trên những người tín đồ thật sự). Đấng ấy ( Đức Thánh Linh) là của cầm về cơ nghiệp của chúng ta, cho đến kỳ chuộc lấy những kẻ Ngài đã được, để khen ngợi sự vinh hiển của Ngài”.

Nhiều năm về trước, khi tôi sống tại Jêrusalem, khoảng năm 1946, tôi đã có một kinh nghiệm thích thú mà đối với tôi đây là một minh họa đẹp về ý nghĩa của chữ ARRABON hay “ của cầm”. Vợ chồng chúng tôi đã đến cổ thành để mua một số vải làm những tấm treo màn cho nhà mới của chúng tôi. Chúng tôi thấy loại vải chúng tôi muốn và hỏi giá cả ( ta cứ tính 1 đô la/ mét), và chúng tôi cần 50 mét. Thế rồi tôi nói với người bán hàng : “ Đây là số vải tôi cần” và ông ta cho tôi biết giá : 50 đôla. Tôi nói với ông ấy : “ được, nhưng tôi không theo đủ 50 đôla, đây là 10 đôla tôi xin đặt cọc, vải nầy bây giờ là thuộc về tôi, vải nầy để sang một bên, ông không được bán cho bất cứ ai khác. Tôi sẽ trở lại với số tiền còn lại và tôi sẽ lấy số vải của tôi”. Vâng, đó là chữ arrabon.

Đức Thánh linh là của cầm ( của đặt cọc) của Đức Chúa Trời trong chúng ta. Ngài đã đặt cọc sự sống đời hầu đến trong chúng ta ngay bây giờ bằng cách ban Thánh linh cho chúng ta. Khi chúng ta nhận sự đặt cọc đó, chúng ta giống như tấm màn, chúng ta được để riêng qua một bên, không được bán cho bất cứ ai khác. Đây là sự bảo đảm rằng Ngài sẽ trở lại với phần còn lại để hoàn tất sự mua chuộc. Đó là lý do tại sao Phaolô nói đến của cầm “ cho đến kỳ chuộc lấy những kẻ mà Đức Chúa Trời đã được”. Chùng ta đã thuộc về Ngài, nhưng chúng chỉ mới nhận được của đặt cọc, sự trả đủ số còn đến nữa.

Đức Thánh linh là của đặt cọc cho sự sống của chúng ta trong Đức Chúa Trời ở đời hầu đến. Sự sống siêu nhiên nầy trải rộng ra đến mọi lãnh vực kinh nghiệm của chúng ta. Nếu chúng ta nghiên cứu Tân ước với tâm trí rộng mở, chúng ta buộc phải nhìn nhận rằng toàn bộ đời sống và kinh nghiệm của Cơ đốc nhân đầu tiền đã được dầm thấm trong nhiều phương diện bằng sự siêu nhiên. Nhưng Kinh nghiệm siêu nhiên không phải là cái gì đó tình cờ, thêm thắt, chúng là một phần không thể thiếu được trong toàn bộ đời sống của họ như những Cơ đốc nhân. Sự cầu nguyện của họ là siêu nhiên, sự giảng dạy của họ là siêu nhiên, họ đã được dẫn dắt cách siêu nhiên, họ được ban quyền năng cách siêu nhiên và được bảo vệ cách siêu nhiên.

Loại bỏ sự siêu nhiên ra khỏi sách Công vụ sứ đồ thì bạn chỉ còn một điều gì đó vô nghĩa và không mạch lạc cả. Từ lúc Đức Thánh linh giáng lâm trong Công vụ đoạn 2 trở đi, thật không thể nào tìm thấy được một đoạn riêng nào mà sự siêu nhiên không dự phần chính yếu trong các ký thuật. Trong câu chuyện về chức vụ của Phaolô tại Êphêsô ở Công vụ 19 : 11 chúng ta thấy một lời diễn tả suy nghĩ : Đức Chúa Trời lại dùng tay Phaolô làm các phép lạ khác thường. Hãy xem xét đến ngụ ý của cụm từ “ các phép lạ khác thường”. Từ ngữ Hilạp có thể được dịch là những phép lạ đều xảy ra hằng ngày. Các phép lạ đều xảy ra hằng ngày trong Hội thánh đầu tiên. Bình thường họ không ngạc nhiên gì đặc biệt, nhưng các phép lạ được ban cho tại Êphêsô qua chức vụ của Phaolô là những phép lạ xứng đáng để ghi nhớ đặc biệt. Ngày nay có bao nhiêu Hội thánh mà chúng ta sẽ tìm thấy trường hợp được dùng cụm từ “ Các phép lạ về một loại không xảy ra hằng ngày”? Ngày nay có bao nhiêu Hội thánh mà các phép lạ đã từng xảy ra, chứ không nói đến xảy ra hằng ngày? Một lãnh vực mà trong đó có sự siêu nhiên đã được thực hiện một cách đặc biệt trong đời sống các Cơ đốc nhân đầu tiên, là trong sự dẫn dắt siêu nhiên mà họ đã nhận được từ Đức Thánh linh. Trong Công vụ đoạn 16, chúng ta đọc về Phaolô và những bạn đồng hành của ông trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ hai, họ đang ở tại Tiểu Á : “....Đức Thánh Linh đã cấm truyền đạo trong cõi Asi. Tới gần xứ Mysi rồi, hai người sắm sửa vào xứ Bithini, nhưng Thánh linh của Đức Chúa Jêsus ( hay Chúa Jêsus, qua Đức Thánh linh) không cho phép” ( Công vụ 16 : 6-7).

Họ đã cố gắng đi về hướng tây, nhưng Đức Thánh linh không cho phép. Rồi đó họ cố đi đến hướng đông bắc, nhưng Đức Thánh linh cũng nói “ không” : “ Họ bèn kíp qua khỏi xứ Mysi và xuống thành Trô - ách, ( tức là hướng tây bắc). Đương ban đêm Phaolô thấy sự hiện thấy có một người Maxêđoan đứng trước mặt mình, nài xin rằng : hãy qua xứ Maxêđoan mà cứu giúp chúng tôi. Phaolô vừa thấy sự hiện thấy đó rồi chúng ta liền tìm cách qua xứ Maxêđoan vì đã định rằng Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta rao truyền Tin lành ở đó”. ( Công vụ 16 : 8-10).

Đây là một biến cố có ý nghĩa và là gương sáng cho chúng ta về sự can thiệp siêu nhiên và sự tể trị của Đức Thánh Linh. Thật là việc tự nhiên thuận về phương diện địa lý cho họ để hoặc là đi về hướng tây đến Asi, hoặc hướng đông bắc đến xứ Bithini. Thật không tự nhiên khi vượt qua những khu vực nầy, đi đến hướng Tây bắc và rồi vượt qua đó đi vào lục địa Aâu châu. Nhưng nếu chúng ta nhìn lại quá trình lịch sử của Hội thánh, chúng ta thấy rằng lục địa Âu châu đã giữ một vai trò độc nhất. Trước tiên, trong việc bảo tồn Tin lành, trải qua các thời kỳ ám thế ( tối tăm), và thử đến trong việc trở thành lục địa chính yếu trong nhiều năm đã ban phát Lời Đức Chúa Trời cho các dân tộc khác. Đức Chúa Trời đã có một mục đích tối thượng bao gồm nhiều thế kỷ trước.Phaolô và các đồng bạn của ông không bao giờ khám phá ra được điều đó bằng lý lẽ tự nhiên, nhưng qua sự dẫn dắt siêu nhiên của Đức Thánh Linh họ đã bước đi đúng vào mục đích đầy trọn của Đức Chúa Trời. Tất cả dòng lịch sử đã ảnh hưởng bởi sự dẫn dắt siêu nhiên của Đức Thánh Linh trong đời sống họ.

Đó chỉ là một ví dụ đơn độc từ rất nhiều sự can thiệp siêu nhiên của Đức Thánh linh trong đời sống của các Cơ đốc nhân đầu tiên.


3. GIÚP ĐỠ TRONG SỰ CẦU NGUYỆN

Phương cách tối quan trọng thứ ba, trong đó Đức Thánh linh giúp đỡ chúng ta là trong sự cầu nguyện của chúng ta. Trong Rôma 8 : 14, Phaolô mô tả việc chúng ta rất cần sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh để sống đời sống Cơ đốc nhân của chúng ta : “ Vì hết thảy kẻ nào được Thánh linh Đức Chúa Trời dẫn dắt đều là con của Đức Chúa Trời”.

Để trở thành một Cơ đốc nhân bạn phải được sanh lại bởi Đức Thánh linh, nhưng để sống như một Cơ đốc nhân và đạt đến bậc thành nhân sau khi bạn đã được tái sanh, bạn phải được sự dẫn dắt liên tục bởi Thánh linh của Đức Chúa Trời. Hình thức động từ mà Phaolô dùng là thể hiện tại liên tiến “ Vì hết thảy kẻ nào đang được ( tiếp tục) dẫn dắt bởi Đức Thánh linh của Đức Chúa Trời, thì những người nầy là con của Đức Chúa Trời”. Họ không còn là những trẻ thơ, nhưng là những con trai con gái trưởng thành. Thêm nữa, trong Rôma 8 : 26 -27 Phaolô áp dụng nguyên tắc được Thánh linh dẫn dắt đặc biệt vào đời sống cầu nguyện của chúng ta. Ông nhấn mạnh sự cần thiết của sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh để cầu nguyện cho đúng : “ Cũng một lẽ ấy, Đức Thánh linh giúp đỡ cho sự yếu đuối của chúng ta. Vì chúng ta chẳng biết sự mình phải xin đặng cầu nguyện cho xứng đáng, nhưng chính Đức Thánh linh ( thân vị Đức Thánh Linh được nhấn mạnh) lấy sự thở than không nói ra được mà cầu khẩn thay cho chúng ta. Đấng dò xét lòng người hiểu biết ý tưởng của Đức Thánh Linh là thể nào, vì ấy là theo ý Đức Chúa Trời mà Ngài cầu thế cho các thánh đồ”.

Phaolô nói vấn đề ở đó về sự yếu đuối mà hết thảy chúng ta đều có. Đây không phải là sự yếu đuối thân xác, nhưng là sự yếu đuối về tâm trí và sự hiểu biết của chúng ta. Chúng ta không biết cầu nguyện như thế nào. Tôi luôn luôn thách đố những tín đồ ở các hội chúng lớn bằng cách yêu cầu họ giơ tay lên nếu họ luôn luôn biết phải cầu nguyện về điều gì và làm thế nào để cầu nguyện cho điều đó. Không bao giờ có ai dám giơ tay lên trước lời thách thức đó. Tôi thiết nghĩ chúng ta đều chân thành đủ để thừa nhận rằng khi chúng ta muốn cầu nguyện chúng ta thường không biết phải cầu nguyện về điều gì. Đôi khi, ngay cả nếu chúng ta nghĩ rằng mình biết phải cầu nguyện cho điều gì thì chúng ta cũng lại không biết làm thế nào để cầu nguyện cho điều đó. Phaolô gọi đó là “ sự yếu đuối của chúng ta”, nhưng ông nói với chúng ta rằng Đức Chúa Trời sai Thánh linh đến để giúp đỡ chúng ta trong sự yếu đuối đó, để chúng ta phải cầu nguyện điều gì và làm thế nào cầu nguyện cho điều đó. Trong một ý nghĩa nào đó, ngôn ngữ của Phaolô gợi ý rằng Đức Thánh Linh cảm động trong chúng ta và thực hành việc cầu nguyện qua chúng ta. Đây là bí quyết để cầu nguyện linh nghiệm, học biết cách làm thế nào để được liên hệ chặt chẽ với Đức Thánh Linh đến nỗi chúng ta có thể đầu phục Thánh linh để Ngài dẫn dắt, hướng dẫn cảm thúc, tăng cường và nhiều khi cầu nguyện qua chúng ta. Tân ước bày tỏ nhiều cách trong đó Đức Thánh Linh có thể giúp đỡ chúng ta, tôi xin tóm lượt một vài cách ở đây:

Cách thứ nhất đã được ngụ ý đến trong những câu ở Rôma 8 : 26-27 : Phaolô nói : “......chính thức - Thánh Linh lấy sự thở than không nói ra được mà cầu khẩn thay cho chúng ta”. Tôi gọi đó là sự cầu thay, vốn là một điểm cao của đời sống Cơ đốc nhân. Rồi ông, nói đến “ ......những sự thở than không thể nói ra được” Tâm trí hữu hạn, nhất định của chúng ta không có đủ lời để cầu nguyện những gì chúng ta cần cầu nguyện vì thế, một trong những cách Đức Thánh linh giúp đỡ chúng ta là cầu nguyện qua chúng ta với những sự thở than, rên rĩ không thể diễn tả được nên lời. Đây là một kinh nghiệm rất thiêng liêng, một sự đau đẻ thuộc linh dẫn đến sự sanh nở thuộc linh.

Êsai 66 : 8 “ Siôn vừa mới nằm nơi ( đau đẻ), đã sanh con cái”. Sẽ không thể có sự tái sanh sản thuộc linh thật sự trong Hội thánh mà lại không có sự đau đẻ thì nàng đã sanh con”. Phaolô xác nhận điều nầy trong Galati 4 : 19 “ Hỡi các con, vì các con mà ta lại chịu đau đớn của sự sanh nở cho đến chừng nào Đấng Christ thành hình trong các con”. Phaolô đã rao giảng cho những người nầy và họ đã qui đạo, những để họ trưởng thành thuộc linh Phaolô nhận biết rằng cần phải làm thêm nữa, ngoài sự giảng dạy cần có sự cầu thay. Ông mô tả sự cầu thay như là “ chịu đau đớn của sự sanh nở”, hay là “ sự thở than không thể nói ra được”.

Phương cách thứ hai trong đó Đức thánh linh giúp chúng ta trong sự cầu nguyện là Ngài soi sáng tâm trí chúng ta. Ngài không thực hiện sự cầu nguyện qua chúng ta cách nầy, nhưng Ngài bày tỏ cho tâm trí chúng ta những gì chúng ta cần cầu nguyện, và cách chúng ta cầu nguyện cho người đó. Có hai khúc Kinh thánh từ các thư tín nói về công việc của Đức Thánh linh trong tâm trí chúng ta:

Rôma 12 : 2 “ Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời. “Chỉ có một tâm trí được đổi mới, mới có thể tìm thấy ý muốn của Đức Chúa Trời, ngay cả trong vấn đề cầu nguyện.

Êphêsô 4 : 23 “......mà phải làm nên mới trong tâm trí mình”. Sự làm nên mới tâm trí của chúng ta được thực hiện bởi Đức Thánh linh. Khi Đức Thánh linh ngự vào và làm nên mới tâm trí của chúng ta, thì chúng ta bắt đầu hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời, và chúng ta bắt đầu biết làm thế nào để cầu nguyện theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Đây là phương cách thứ hai Đức Thánh linh giúp đỡ chúng ta, bằng cách làm mới lại tâm trí chúng ta, soi sáng tâm trí chúng ta và bày tỏ cho chúng ta làm thế nào để cầu nguyện.

Phương cách thứ ba trong đó Đức Thánh linh giúp chúng ta là Ngài đặt những lời phải nói vào môi miệng chúng ta, thường khi bất ngờ. Mỗi khi đề cập đến điều nầy, tôi luôn luôn nghĩ đến một biến cố với vợ tôi. Chúng tôi đang ở tại Đan mạch, vốn là quê hương của vợ tôi vào cuối tháng 10. Chúng tôi sắp đến nước anh vào ngày hôm sau để nghỉ ngơi tại đó vào tháng 11. Tôi là người Anh cho nên tôi biết rõ tháng 11 ở Anh là tháng sương mù lạnh lẽo và u ám. Khi chúng tôi cầu nguyện vào ngày trước lúc chúng tôi sang Anh quốc, tôi đã nghe vợ tôi cầu nguyện : “ Xin ban cho chúng con thời tiết tốt đẹp suốt thời gian chúng con sống ở nước Anh”. Tôi hầu như ngã ra khỏi giường là nơi chúng tôi đang ngồi và cầu nguyện. Sau đó tôi nói với vợ tôi “ Em có biết em đã cầu nguyện gì không?”. Vợ tôi nói : “Không em không nhớ”. Đây là bằng chứng chắc chắn đối với tôi đó là Đức Thánh linh. Tôi nói : “ Vâng, em đã cầu nguyện xin Chúa cho chúng ta thời tiết tốt đẹp suốt cả thời gian chúng ta sống ở Anh, và em có biết tháng 11 ở nước Anh như thế nào không? Vợ tôi chỉ nhún vai. Và chúng tôi đã trải qua cả tháng 11 ở nước Anh, chúng tôi không có một ngày lạnh lẽo, ướt át, bi đát ở đó. Thời tiết rất tốt đẹp.

Khi chúng tôi đi khỏi đó vào cuối tháng 11, tôi nói với những người tiển chúng tôi ở phi trường : “ Hãy xem, vì khi chúng tôi đi thì thời tiết sắp thay đổi”. Quả nhiên, y như đó là lời cầu nguyện Đức Thánh Linh đặt trong môi miệng của vợ tôi, đó là lời Chúa muốn nàng cầu nguyện.

Phương cách thứ tư Đức Thánh Linh giúp đỡ chúng ta trong sự cầu nguyện là điều đã được nhắc nhở nhiều lần trong Tân ước. Đức Thánh linh ban cho chúng ta một ngôn ngữ mới, một ngôn ngữ mà tâm trí chúng ta không biết. Ngày nay số người nói về việc nầy như là một ngôn ngữ cầu nguyện. Phaolô nói trong 2Côrinhtô 14 : 2 “ Vì người nào nói tiếng lạ ( một ngôn ngữ mình không biết), thì không phải nói với người ta, bèn là nói với Đức Chúa Trời bởi chẳng có ai hiểu ( ấy trong tâm thần mà người kia nói lời mầu nhiệm...)...(c.4) kẻ nói tiếng lạ tự gây dựng lấy mình......

Loại cầu nguyện nầy phục vụ ba nhiệm vụ căn bản : trước hết, khi chúng ta cầu nguyện trong tiếng lạ, chúng ta không nói với người nhưng với Đức Chúa Trời đối với tôi đây là một đặc ân to lớn trong chính sự cầu nguyện nầy. Thứ hai, chúng ta đang nói những điều mà tâm trí chúng ta không hiểu chúng ta đang nói sự mầu nhiệm hay đang chia xẻ những bí mật của Đức Chúa Trời. Thứ ba, khi chúng ta làm việc nầy, chúng ta đang gây dựng lấy mình hay sự gây dựng chúng ta lên.

Trong 1Côrinhtô 14 : 14, Phaolô nói : “ Vì nếu tôi cầu nguyện bằng tiếng lạ, thì tâm thần tôi cầu nguyện nhưng trí khôn tôi lơ lửng”. Đây là một trường hợp khi Đức Thánh Linh soi sáng tâm trí chúng ta, Ngài cho chúng ta một ngôn ngữ mới và cầu nguyện qua chúng trong ngôn ngữ đó. Chúng ta không nên áp dụng một hình thức cầu nguyện khác. Phaolô nói rất rõ : “ Tôi sẽ cầu nguyện theo tâm thần, nhưng cũng cầu nguyện bằng trí khôn”. ( c.15) Cả hai loại cầu nguyện đó đều có thể được sử dụng. Khi chúng ta để cho Đức Thánh Linh ngự vào, đầu phục Ngài và để Ngài hành động trong chúng ta theo lời Kinh thánh, thì sẽ có một sự giàu có to lớn và sự dễ dàng trong đời sống cầu nguyện của chúng ta. Đây là điều Đức Chúa Trời mong muốn ở mỗi một chúng ta.


4. SỰ SỐNG VÀ SỨC KHỎE CỦA THÂN THỂ.

Nhiệm vụ thứ tư của Đức Thánh linh như là người Paraclete là Ngài truyền đạt sự sống siêu nhiên và sức khỏe vào trong thân thể của chúng ta. “ Kẻ trộm chỉ đến để cướp, giết và hủy diệt; còn Ta đã đến hầu cho chiên được sự sống và được sự sống dư dật”. ( Giăng 10 : 10).

Có hai người đang được đưa ra trước mặt chúng ta ở đây và chúng ta cần phải phân biệt rất rõ ràng giữa 02 người : Jêsus, Đấng ban sự sống; và Satan, kẻ cướp sự sống. Ma quỷ chỉ đến trong đời sống chúng ta để cướp đi sự sống. Nó đến để cướp đi những phước lành và những sự tiếp trợ của Đức Chúa Trời. Nó đến để giết chết thể xác chúng ta và hủy diệt chúng ta đời đời. Mọi người chúng ta cần phải hiểu rằng nếu chúng ta để ma quỷ có bất cứ chỗ nào trong đời sống chúng ta, thì đây là điều nó sẽ làm : cướp, giết và hủy diệt theo mức độ chúng ta cho phép nó làm.

Mặt khác, Chúa Jêsus đến để làm điều đó hoàn toàn ngược lại : Ngài đến để chúng ta có được sự sống và có được sự sống cách dư dật. Điều quan trọng chúng ta biết là sự sống mà Chúa Jêsus đã đến ban cho chúng ta thì được sự quản lý của Đức Thánh Linh. Chúng ta chỉ có sự sống này theo tỷ lệ chúng ta cho phép Đức Thánh Linh hành động công việc của Ngài trong chúng ta. Nếu chúng ta kháng cự hay từ khước công việc của Đức Thánh Linh thì chúng ta không thể kinh nghiệm sự đầy dẫy dư dật của sự sống thiên thượng mà Chúa Jêsus đã đến để mang lại cho chúng ta. Chúng ta nên hiểu rằng chính Đức Thánh linh là Đấng đã khiến cho thân thể Chúa Jêsus sống lại từ cõi chết. Phaolô đã nói đến điều nầy trong Rôma 1 : 4 về Chúa Jêsus “ Theo Thần Linh của Thánh đức thì bởi sự sống lại của Ngài từ trong kẻ chết, được tỏ ra là Con Đức Chúa Trời có quyền phép.....”

“ Thần linh của Thánh đức” là lối dịch Hy- văn về cụm từ Hi - bá - lai, chỉ về Đức Thánh Linh. Dù Phaolô đang viết tiếng Hilạp, ông đã suy nghĩ trong tiếng Hi - Bá - lai, cho nên khi Phaolô nói : ....qua Thần Linh của Thánh đức” thì cũng y như ông nói “ qua Đức Thánh linh của Jêsus đã được bày tỏ ( tuyên bố) là con Đức Chúa Trời bởi quyền phép, đã khiến Ngài sống lại từ kẻ chết ( tức là quyền phép của Đức Thánh Linh)”.

Trong Rôma 8 : 10-11, Phaolô tiếp tục nói rằng : cùng một thứ quyền phép đã khiến thân thể chết của Chúa Jêsus sống lại từ phần mộ, cũng là quyền phép bây giờ đang sống trong thân thể của chúng ta. Trong những phần trước, tôi đã chỉ ra rằng trong một số ý nghĩa nào đó, đây là tuyệt điểm của quá trình cứu chuộc của Đức Chúa Trời trong thời đại nầy : rằng chính Đức Chúa Trời, trong thân thể chúng ta và khiến thân thể đó thành ra Đền thờ của Ngài hoặc nơi ngự của Ngài : “ Vậy, nếu Đấng Christ ở trong anh em, thì thân thể chết nhơn cớ tội lỗi, mà thần linh sống nhơn cớ sự công bình. Lại nếu Thánh linh của Đấng làm cho Đức Chúa Jêsus sống lại từ kẻ chết cũng sẽ nhờ Đức Thánh Linh Ngài ở trong anh em khiến thân thể hay chết của anh em lại sống” ( Rôma 8 : 10--11).

Ngụ ý trong câu 10 là khi Đấng Christ ngự vào, khi chúng ta qui đạo và đuợc tái sanh, một sự sống cũ chấm dứt và một sự sống mới bắt đầu. Sự sống cũ, xác thịt đã được kết thúc và tâm linh chúng ta được sống lại với sự sống của Đức Chúa Trời. Trong câu 11, điều đó có ý nghĩa gì cho thân thể chúng ta? Điều nầy rất rõ ràng, cùng một quyền phép đã khiến Chúa Jêsus sống lại khỏi phần mộ bây giờ lại đang ngự trong thân thể của mỗi một tín đồ đầu phục và đang truyền đạt vào thân thể hay chết đó cùng một loại sự sống mà Ngài đã truyền đạt cho thân thể chết của Chúa Jêsus và đã khiến Ngài sống lại với một thân thể đời đời.

Quá trình truyền đạt sự sống thiên thượng vào thân thể chúng ta sẽ chưa được hoàn thành cho đến sự sống lại chung từ kẻ chết. Điều quan trọng để hiểu là chúng ta chưa có được thân thể phục sinh, nhưng điều chúng ta đang có là sự sống phục sinh ở trong thân thể hay chết của chúng ta. Phaolô tiếp tục nói trong những khúc Kinh thánh khác rằng sự sống phục sinh trong thân thể hay chết của chúng ta có thể chăm lo cho tất cả nhu cầu thuộc thể chúng ta cho đến lúc Đức Chúa Trời phân rẽ tâm linh chúng ta ra khỏi thân thể và gọi chúng ta về nhà.

Chúng ta phải hiểu cách nào thân thể chúng ta đã được dựng nên thửơ ban đầu, bởi vì tất cả những điều đó có liên hệ lẫn nhau “ Giêhôva Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sinh khí vào lỗ mũi, thì người trở nên một loài sanh linh ( hay một linh hồn sống. Điều gì đã tạo nên thể xác con người? Đó là Thánh linh của Đức Chúa Trời hà hơi vào, đã biến hóa một hình thể đất sét thành một con người sống với tất cả các phép lạ và các sự kỳ diệu của một thân thể loài người. Chính là Đức Thánh Linh từ ban đầu đã dựng nên thân thể của loài người chúng ta. Nói một cách hợp lý, Ngài là Đấng gìn giữ thân thể. Điều nầy rất hợp lý, nếu các Cơ đốc nhân có thể thấy được điều nầy. Sự chữa lành thiên thượng và sức khỏe thiên thượng là hợp lý trong ánh sáng của Kinh thánh. Chẳng hạn, nếu đồng hồ của bạn bị hư, bạn sẽ không mang nó đến với người thợ đóng giày, nhưng đến nơi người chế tạo đồng hồ. Bây giờ, hãy áp dụng thế nầy : “nếu thân thể của bạn gặp trục trặc, bạn đưa thân thể của bạn đến đâu? Theo ý tôi, điều hợp lý để làm đó là đến với người dựng nên thân thể, chính là Đức Thánh linh.

Lời chứng đầy cảm động của Phaolô trong 2Côrinhtô 11 : 23-25 “ Tôi lại là kẻ hầu việc nhiều hơn, tôi đã chịu khó nhọc nhiều hơn, tù rạc nhiều hơn, đòn vọt quá chừng. Đôi phen tôi phải bị chết, 5 lần bị người Giuđa đánh roi, mỗi lần thiếu một roi đầy 40. Ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, 3 lần bị chìm tàu. Tôi đã ở trong biển sâu một ngày một đêm” Thật hầu như rất khó tin rằng một người có thể trải qua tất cả những điều đó mà rất tích cực, mạnh mẽ và rất can đảm. Quyền năng gì đã gìn giữ Phaolô để trải qua tất cả những điều đó? Quyền năng của Đức Thánh linh. Đây là câu chuyện Phaolô bị ném đá ở Lít - trơ trong sách Công vụ 14 : 19-20 : “ Bấy giờ có mấy người Giuđa từ thành Antiốt và thành Ycôni đến dỗ dành dân chúng. Chúng ném đá Phaolô tưởng người đã chết nên kéo người ra ngoài thành ( Cần khá nhiều đá mới ném cho một người gần chết) Nhưng các môn đồ đương nhóm xung quanh người thì người vùng đứng dậy và vào trong thành. Bữa sau người đi với Banaba đến thành Đẹt - bơ”.

Thật là một người lạ lùng. Tôi đã nghe một số người gợi ý rằng Phaolô là một hạng người tàn phế, hầu như giờ nào ông cũng đau ốm lời bình luận của tôi là : “Nếu Phaolô là người tàn phế, nguyện Đức Chúa Trời ban cho chúng ta thêm nhiều người tàn phế giống như Phaolô”. Chúng tôi đã xem xét ngắn gọn về ký thuật đáng chú ý về sức chịu đựng và khả năng phục hồi sức khỏe cách nhanh chóng của sứ đồ Phaolô. Bây giờ chúng ta hãy xem đến bí quyết của ông, ông nói gì về điều nầy?

“ Nhưng chúng tôi đựng của quí nầy ( “ của quý nầy” là Thánh linh Đức Chúa Trời đang ngự trị) trong chậu bằng đất, hầu cho tỏ quyền phép lớn dường ấy là bởi Đức Chúa Trời mà ra, chớ chẳng phải bởi chúng tôi. Chúng tôi bị ép đủ cách nhưng không đến cùng, bì túng thế nhưng không ngã lòng bị bắt bớ nhưng không đến bỏ, bị đánh đập nhưng không đến chết mất. Chúng tôi thường mang sự chết của Đức Chúa Jêsus trong thân thể mình hầu cho sự sống của Đức Chúa Jêsus càng được tỏ ra trong thân thể chúng tôi. Bởi chúng tôi là kẻ sống, vì cớ Đức Chúa Trời mà hằng bị nộp cho sự chết hầu cho sự sống của Đức Chúa Jêsus cũng được tỏ ra trong xác thịt hay chết của chúng tôi. Vậy thì sự chết nằm trong chúng tôi, còn sự sống trong anh em” ( 2Côrinhtô 4 : 7-12).

Câu 7 và 8 cho chúng ta biết không phải trong chúng ta có những loại người khác, nhưng chúng ta có loại quyền phép khác. Những điều sẽ đè bẹp người khác nhưng không thể đè bẹp chúng ta bởi vì trong chúng ta có một quyền phép khiến chúng ta phục hồi sức mạnh nhanh chóng.

Có một sự tương phản đẹp đẽ trong câu 10, chúng ta kể mình như đã chết với Đấng Christ và khi chúng ta làm như vậy thì sự sống của Ngài được thể hiện ra trong thân thể chúng ta. Điều rất rõ ràng la økhông phải trong đời hầu đến, nhưng ngay trong đời nầy, sự sống phục sinh siêu nhiên của Đức Chúa Jêsus trong Thánh linh được thể hiện ra trong thân thể chúng ta. Những chữ cuối cùng của câu 11 rất có ý nghĩa : .....” hầu cho sự sống của Đức Chúa Jêsus cũng được tỏ ra trong xác thịt hay chết của chúng tôi.” Đây không phải là một sự hiện diện đang ngự trị bí mật trong chúng ta mà không một ai có thể thấy, nhưng là một sự hiện diện hoạt động với những kết quả trong thân thể chúng ta thể hiện ra cho mọi người. Sự sống phục sinh của Chúa Jêsus đã được tỏ bày ra trong thân thể hay chết của chúng ta.

Câu 12 dạy, khi chúng ta nhận lãnh án chết, đến chỗ chấm dứt sức mạnh và khả năng thuộc thể riêng của chúng ta, thì một loại sự sống mới sẽ hành động trên chúng ta đến với những người khác. “ Vậy nên, chúng ta chẳng ngã lòng, dầu người bề ngoài hư nát, nhưng người bề trong cứ đổi mới hằng ngày càng hơn” ( 2Côrinhtô 4 : 16). Con người bề ngoài hư nát nhưng có một sự sống trong con người bề trong được đổi mới càng ngày càng hơn. Sự sống bề trong siêu nhiên lạ lùng của Đức Chúa Trời lo chăm sóc những nhu cầu của con người bề ngoài chúng ta.


5. TRÀN TRỀ TÌNH YÊU THƯƠNG

Phước hạnh lớn nhất và kỳ diệu nhất trong tất cả những phước hạnh mà Đức Thánh Linh ban cho chúng ta là đổ tràn tình yêu thiên thượng của Đức Chúa Trời trong lòng chúng ta. “ Vậy chúng ta được xưng công bình bởi đức tin thì được hòa thuận với Đức Chúa Trời bởi Đức Chúa Jêsus Christ của chúng ta, là Đấng đã làm cho chúng ta cậy đức tin và trong ơn nầy là ơn chúng ta hiện đương đứng vững và chúng ta khoe mình trong sự trông cậy về vinh hiển Đức Chúa Trời. Nào những thế thôi, nhưng chúng ta cũng khoe mình trong sự hoạn nạn nữa, vì biết rằng sự hoạn nạn sanh ra sự nhịn nhục, sự nhịn nhục sanh sự rèn tập, sự rèn tập sanh sự trông cậy. Vả sự trông cậy không làm cho hổ thẹn, vì sự thương yêu của Đức chúa Trời rải khắp trong lòng chúng ta bởi Đức Thánh Linh đã được ban cho chúng ta’(Rôma 5:1-5)

Tuyệt điểm đến câu thứ 5 : “...sự trông cậy không làm cho hổ thẹn, vì sự thương yêu của Đức Chúa Trời đã rải khắp trong lòng chúng ta bởi Đức Thánh Linh là Đấng đã được ban cho chúng ta”. Phao Lô tóm tắt một số các giai đoạn của sự diễn tiến thuộc linh trong câu 5 nầy mà tôi muốn nói qua cách ngắn gọn.

Giai đoạn thứ nhất là chúng ta có sự hòa bình với Đức Chúa Trời, thứ hai chúng ta được bước vào ân điển của Đức chúa Trời qua đức tin. Thứ ba, chúng ta vui mừng trong sự hi vọng về sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, hi vọng về những gì trong tương lai. Thứ tư, chúng ta cũng vui mừng trong sư hoạn nạn, (điều nầy xảy ra là vì những kết quả mà sự hoạn nạn đem lại trong chúng ta khi những điều đó được tiếp nhận cách đúng đắn).

Phao lô liệt kê ba kết quả liên tiếp của sự hoạn nạn, được chịu đựng cách đúng đắn: Sự nhịn nhục, bản tánh được thử thách và sự hi vọng. Sau đó chúng ta đến tuyệt điểm : tình yêu thương của Đức Chúa Trời được đổ tràn vào lòng chúng ta bởi Đức Thánh Linh. Chữ “ tình yêu” trong Tân ước, chữ Hilạp là AGAPE, thường chỉ được giới hạn vào loại tình yêu thương của Đức Chúa Trời mà không thể nào đạt được nếu không thông qua Đức Thánh linh. Trong thiên nhiên hầu hết các trường hợp, chúng ta không thể nào tạo ra AGAPE từ chính bản tánh của chúng ta.

Phaolô định nghĩa bản chất của tình yêu thương AGAPE. Ông giải thích thế nào tình yêu đó được bày tỏ trong Đức Chúa Trời và trong Đấng Christ. “ Thật vậy, khi chúng ta còn yếu đuối, Đấng Christ đã theo kỳ hạn chịu chết vì kẻ có tội. Vả, họa mới có kẻ chịu chết vì người nghĩa, dễ dàng cũng có kẻ chết vì người lành. Nhưng Đức Chúa Trời đã tỏ lòng thương yêu Ngài đối với chúng ta ( tình yêu AGAPE của Ngài) khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết.” ( Rôma 5 : 6-8).

Khi Đấng Christ chịu chết vì chúng ta, có 3 từ ngữ mô tả về chúng ta : Bất lực, bất tính và tội nhân. Chính tình yêu agape là thứ tình yêu tự bạn cho là không đặt ra điều kiện trưóc. Đây không phải là thứ tình yêu nói rằng bạn phải tốt trước, hoặc bạn phải làm điều nầy hoặc điều nọ. Đây là loại tình yêu ban cho cách nhưng không, thậm chí cho những người không xứng đáng nhất và bất lực nhất.

Bây giờ, chúng ta sẽ theo dõi trong Tân ước những giai đoạn khác nhau mà bởi đó tình yêu Agape được tạo ra trong chúng ta. Sản phẩm trước hết của sự tái sanh trong 1Phierơ 1 : 22-23 : “ Anh em vâng theo lẽ thật làm sạch lòng mình đặng có lòng yêu thương anh em cách thật thà, nên hãy yêu nhau sốt sắng hết lòng. Anh em đã được sanh lại, chẳng phải bởi giống hay hư nát nhưng bởi giống chẳng hay hư nát là bởi lời hằng sống và bền vững của Đức Chúa Trời”.

Tình yêu thương AGAPE có thể xuất với sự tái sanh vì sự tái sanh là hạt giống đời đời, không hư nát của Lời Đức Chúa Trời vốn được tạo ra trong chúng ta một loại sự sống mới mà trong đó tình yêu chính là bản chất mới của sự sống đó. “ Hỡi kẻ yêu dấu chúng ta hãy yêu mến lẫn nhau, vì tình yêu thương đến từ Đức Chúa Trời, kẻ nào yêu thì sanh từ Đức Chúa Trơì và nhìn biết Đức Chúa Trời. Ai chẳng yêu thì không biết Đức Chúa Trời, vì Đức Chúa Trời là sự yêu thương” ( 1Giăng 4 : 7-8). Bạn có thể thấy rằng loại tình yêu đó là dấu chứng của sự tái sanh. Một người mới được tái sanh thì có tình yêu đó, người không được tái sanh không có được tình yêu đó.

Giai đoạn kế tiếp của quá trình truyền đạt tình yêu thiên thượng nầy cho chúng ta đã được Phaolô mô tả trong Rôma 5 : 5 “ Vả, sự trông cậy không làm cho hổ thẹn, vì sự yêu thương của Đức Chúa Trời rải khắp trong lòng chúng ta bởi Thánh Linh đã được ban cho chúng ta”. Sau sự tái sanh, trên bản tánh mới vốn được tạo ra bởi sự tái sanh, Đức Thánh linh đổ tràn ra toàn bộ tình yêu thương của Đức Chúa Trời vào trong lòng chúng ta. Chúng ta được ngụp lặn trong tình yêu thương, được tiếp xúc với một nguồn cung cấp vô tận tình yêu của Đức Chúa Trời được đổ vào lòng chúng ta bởi Đức Thánh Linh. Đây là một điều thiêng liêng, vô tận và siêu nhiên, một điều mà chỉ có Thánh Linh mới có thể thực hiện được”.

Hãy so sánh những gì Chúa Jêsus phán trong Giăng 7 : 37 -39 bạn có thể thấy sự tương phản. Trước hết, chúng ta có hình ảnh một người khát không đủ nước cho chính mình, nhưng khi Đức Thánh Linh ngự vào thì người khát nước đó trở nên một ống dẫn cho những dòng nước sống. Đó là tình yêu của Đức Chúa Trời đã đổ vào lòng chúng ta không phải là tình yêu loài người, cũng không phải là một phần của tình yêu Đức Chúa Trời. Đây là toàn bộ tình yêu của Đức Chúa Trời và chúng ta chìm ngập trong đó. Toàn bộ tình yêu vô hạn, vô tận của Đức Chúa Trời có được môït ống dẫn để trải qua đời sống của chúng ta bởi Đức Thánh Linh, một người khát nước trở thành ống dẫn những dòng nước sống.

Bây giờ chúng ta hãy xem đoạn sách nổi tiếng về tình yêu của Phaolô trong 1Côrinhtô 13. Ở cuối đoạn 12 ông nói “....tôi sẽ chỉ dẫn cho anh em con đường tốt lành hơn”. Con đường nầy đã được mở ra trong những câu đầu của đoạn 13 “ Dầu tôi nói được các thứ tiếng loài người và thiên sứ, nếu không có tình yêu thương ( agape) thì tôi chỉ như đồng kêu lên hay chập chỏa vang tiếng. Dầu tôi được ơn nói tiên tri cùng biết đủ các sự mầu nhiệm và mọi sự hay biết, Dầu tôi có cả đức tin đến nỗi dời núi được nhưng không có tình yêu thương thì tôi chẳng ra gì. Dầu tôi phân phát gia tài để nuôi kẻ nghèo khó, lại bỏ thân mình để chịu đốt, song không có tình yêu thương thì điều đó chẳng ích chi cho tôi”.

Thật là quan trọng để thấy rằng tất cả những ân tứ và những sự biểu lộ của Đức Thánh Linh đã được hoạch định để làm những ống dẫn hay các công cụ của tình yêu thiên thượng. Nếu chúng ta không sử dụng các ân tứ và sẵn sàng làm để dùng cho tình yêu thương của Đức Chúa Trời là chúng ta làm hoản kế hoạch của Đức Chúa Trời. Chúng ta có thể có tất cả những ân tứ khác nhưng chúng ta bị bỏ rơi như tiếng chập chỏa hay mã la kêu rền.

Trong 1Côrinhtô 13 : 1, Phaolô nói : “ Nếu tôi nói được các thứ tiếng loài người và thiên sứ nhưng không có tình yêu thương thì tôi chỉ như đồng kêu lên hay chập chỏa vang tiếng”. Khi Đức Thánh Linh đến, Ngài ngự vào trong một tấm lòng đã được tẩy sạch bởi đức tin và quay về cùng Đức Chúa Trời. Sau đó, có thể tấm lòng đó khô khan, đánh mất mục đích của Đức Chúa Trời hoặc dùng sai những gì Đức Chúa Trời ban sẳn cho chúng ta, Trong trường hợp đó xảy ra như Phaolô nói : thì tôi trở nên như đồng kêu lên hay là chập chỏa vang tiếng. Thực tế ông nói : “ Tôi không phải như thế khi tôi nhận lãnh mục đích. Khi tôi đánh mất mục đích thì tôi trở nên giống như vậy, và tôi đã làm hỏng mục đích của Đức Chúa Trời”.

Hãy so sánh điều đó với những gì Phaolô nói trong 1Timôthê 1 : 5-6. Mục đích của tất cả chức vụ Cơ đốc là tình yêu thương. Mục đích của Đức Chúa Trời cho Cơ đốc nhân là sự biểu lộ kiên trì của tình yêu thiên thượng. Tôi xin tóm lượt ba giai đoạn trong quá trình truyền đạt tình yêu thương của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta.

Trước hết là sự tái sanh. Khi chúng ta được tái sanh, chúng ta trở nên có khả năng cho loại tình thương đó. Thứ hai, sự đổ tràn toàn bộ tình thương yêu của Đức Chúa Trời vào trong lòng chúng ta bởi Đức Thánh Linh là Đấng đã được ban cho chúng ta, nguồn quyền năng vô tận của Đức Chúa Trời đã được sẳn ban cho chúng ta. Thứ ba, sau biểu lộ của tình yêu đó đã được hành động ra trong cuộc sống hằng ngày, qua sự kỷ luật và rèn luyện bản tánh. Đây là khi tình yêu đến từ Đức Chúa Trời được làm ra cho những đồng loại của chúng ta thông qua chúng ta.

Lần đầu tiên tôi thấy thác Niagara, tôi sánh số lượng nước nhiều khủng khiếp đó với tình yêu của Đức Chúa Trời đang được đổ ra. Tôi nghĩ : “ Tuy nhiên mục đích chính của nó không được thực hiện ở chỗ tràn ra đâu. Chỉ khi nào năng lực đó được đưa vào ống dẫn và được sử dụng để đem lại ánh sáng, nhiệt lượng và năng lượng cho thành phố chính của lục đia Bắc - Mỹ thì mục đích của nó mới thành đạt. Điều nầy giống như chúng ta. Chúng ta nhận lãnh tình yêu từ Đức Chúa Trời khi chúng ta được tái sanh, tinh yêu đó đổ tràn ra trên chúng ta bởi Đức Thánh Linh, nhưng nó chỉ trở nên sẳn dùng cho những người đồng loại của chúng ta khi nó được dẫn qua đời sống của chúng ta trong kỷ luật và sự rèn luyện.


LÀM THẾ NÀO ĐỂ MỞ LÒNG RA CHO ĐỨC THÁNH LINH

Làm thế nào để chúng ta có thể mở lòng mình ra cho Đức Thánh linh và nhận lãnh Ngài trong sự đầy dẫy của Ngài, và qua Ngài chúng ta nhận lãnh được những phước hạnh đã được hứa ban? Chúng ta sẽ nhìn xem một số những câu Kinh thánh nêu lên những điều kiện chúng ta cần thỏa mãn để nhận lãnh sự đầy dẫy Đức Thánh Linh. Có một số những điều kiện đặc biệt mà Đức Chúa Trời đòi hỏi chúng ta phải làm trọn. Sách Công vụ 2 : 37- 38 là phần kết thúc bài giảng Phierơ nhằm Lễ Ngũ Tuần và đưa ra sự đáp ứng của dân chúng “ Chúng nghe bấy nhiêu lời trong lòng cảm động, bèn hỏi Phierơ và các sứ đồ khác rằng : Hỡi anh em, chúng tôi phải làm gì đây? ( Đây là một câu hỏi rõ rệt và Lời Chúa cũng đưa ra một câu trả lời rõ rệt) Phierơ trả lời : Hãy hối cải, ai nấy phải nhơn Danh Chúa Jêsus chịu Báptêm để được tha tội mình, rồi sẽ lãnh sự ban cho của Đức Thánh Linh”.

Ở đây chúng ta có lời hứa : “.....các ngươi sẽ nhận lãnh sự ban cho của Đức Thánh Linh”. Chúng ta cũng có hai điều kiện được nêu lên cách rõ rệt : Ăn năn và chịu báptêm. Ăn năn có nghĩa là thành thật quay bỏ khỏi mọi tội lỗi cùng sự chống nghịch và hoàn toàn đầu phục chính mình cho Đức Chúa Trời cùng những đòi hỏi của Ngài. Chịu Báptêm và trải qua một thánh lễ nhờ đó chúng ta được đồng hóa thân mình với Đấng Christ trong sự chết, sự chôn và sự sống lại của Ngài một cách công khai trước mặt mọi người.

Như vậy, có hai đòi hỏi chủ yếu căn bản để nhận lãnh sự ban cho của Đức Thánh Linh : Ăn năn và chịu báp têm. Trong Luca 11 : 9 -13, Chúa Jêsus phán : “ Ta lại nói cùng các ngươi, hãy xin sẽ ban cho, hãy tìm sẽ gặp, hãy gõ cửa sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp và sẽ mở cửa cho ai gõ. Trong các ngươi có ai làm cha khi con mình xin bánh mà cho đá chăng? Hay là xin cá mà cho rắn thay vì cá chăng? Hay là xin trứng mà cho bò cọp chăng? Vậy, nếu các ngươi là xấu còn biết cho con cái mình vật tốt thay, huống chi Cha các ngươi ở trên trời lại chẳng ban Đức Thánh Linh cho người xin Ngài ư?”.

Đây là một điều kiện đơn sơ nhưng rất quan trọng. Chúa Jêsus phán rằng Cha sẽ ban Đức Thánh Linh cho con cái Ngài nếu chúng ta xin. Tôi đã từng nghe những Cơ đốc nhân nói rằng : “ Tôi không cầu xin cho được Đức Thánh Linh”. Điều đó không đúng với Kinh thánh. Chúa Jêsus nói với các môn đồ : “ Cha các ngươi ở trên trời sẽ ban Đức Thánh Linh cho các ngươi nếu các ngươi cầu xin Ngài”. Một chỗ khác chép Chúa Jêsus phán Ngài đi về cùng Cha và nài xin Cha ban sai Đức Thánh Linh cho các môn đồ của Ngài. Nếu Chúa Jêsus còn phải xin Cha, thì không có lý gì chúng ta lại không xin như thế.

Vậy thì đây là điều kiện thứ ba: CẦU XIN. Trong Giăng 7 : 37-29, chúng ta có ba điều kiện đơn giản được nêu lên : Thứ nhất, chúng ta phải khao khát. Đức Chúa Trời không ép buộc ban ơn phước của Ngài trên những người không cảm thấy cần thiết. Nhiều người không bao giờ nhận lãnh sự đầy dẫy Đức Thánh Linh bởi vì họ không thực sự khao khát. Nếu bạn nghĩ rằng bạn đã có đủ tất cả những gì bạn có cần, thì Đức Chúa Trời còn cho bạn thêm gì nữa cho phiền. Có thể lắm bạn không tận dụng hết những gì bạn đang có sẳn, bạn sẽ bị định tội lớn hơn nếu Đức Chúa Trời ban thêm cho bạn. Đó là điều kiện đơn sơ nhưng rất thiết yếu. Khao khát có nghĩa là bạn đã nhận thức rằng bạn cần nhiều hơn điều mình đương có. Khát gì một ước muốn mạnh mẽ nhất trong thân xác con người. Khi môït người thật sự khát nước thì họ không thiết gì đến ăn hay bất cứ điều khác. Tất cả điều họ muốn là được uống nước. Tôi đã từng trải 3 năm ở những sa mạc tại Bắc Phi và tôi đã biết khá nhiều hình ảnh của sự khát nước gì. Khi một người khát nước người đó không tranh cải, nói năng hay thảo luận gì cả. Đó là điều Chúa Jêsus đã nói : “ Các ngươi phải khao khát”.

Nếu bạn khát, Ngài phán : “......hãy đến cùng Ta” vì thế, điều kiện thứ hai là đến cùng Chúa Jêsus Ngài là Đấng Báptêm bằng Đức Thánh Linh. Nếu bạn muốn được báptêm, bạn phải đến với người báptêm bằng Đức Thánh Linh, và không một ai khác ngoài Chúa Jêsus.

Ngài phán bạn phải uống. Điều nầy quá đơn giản đến nổi một số người đã bỏ qua. Uống là nhận lãnh một điều gì đó vào trong người bằng một quyết định của ý chí và một sự hưởng ứng của thân thể. Đây cũng là một phần của sự nhận lãnh Đức Thánh linh. Khao khát đến với Chúa Jêsus và uống. Chỉ hoàn toàn thụ động và nói : “ Vâng”. Uống là sự nhận lãnh tích cực vào trong người bạn.

Chúng tôi muốn đề cập đến hai điều thích đáng liên quan đến toàn thể chúng ta mà đã có nói đến trong các phần trước. Thân thể của chúng ta đã được Đức Chúa Trời định trước để làm đền thờ cho Đức Thánh Linh : “ Anh em há chẳng biết rằng thân thể mình là đền thờ của Đức Thánh Linh đang ngự trong anh em, là Đấng mà anh em đã nhận bởi Đức Chúa Trời sao?”. Thứ hai, chúng ta được đòi hỏi phải dâng hay giao phó cho Đức Chúa Trời những chi thể của thân thể chúng ta như là những dụng cụ cho Ngài sử dụng. Trách nhiệm của chúng ta là “ Chớ nộp chi thể mình cho tội lỗi như là đồ dùng gian ác, nhưng hãy phó chính mình anh em cho Đức Chúa Trời, dường như đã chết mà nay trở nên sống và dâng chi thể mình cho Đức Chúa Trời như là đồ dùng cho sự công bình” ( Rôma 6 : 13). Chúng ta có trách nhiệm ngay từ trong Kinh thánh để dâng phó hay cung hiến các chi thể của chúng ta cho sự phục vụ Chúa. Có một chi thể đặc biệt cần được Đức Chúa Trời kiểm soát, đó là cái lưỡi “......nhưng cái lưỡi không ai trị phục nó được” ( Giacơ 3 :8).

Chúng ta cần sự giúp đỡ từ Đức Chúa Trời để kiểm soát tất cả các chi thể trong thân và có một quan thể cần sự giúp đỡ đặc biệt đó là cái lưỡi”. Khi Kinh thánh ngự vào trong sự đầy dẫy của Ngài, thì quan thể đầu tiên mà Ngài ảnh hưởng, kiểm soát và sử dụng để tôn vinh Đức Chúa Trời là cái lưỡi. Bạn sẽ thấy rằng mỗi lần Tân ước nói về những ngườiđược đổ đầy dẫy Đức Thánh linh, thì kết quả lập tức đầu tiên là một số lời phát ra từ môi miệng. Khi bạn đến với Chúa Jêsus và uống, kết quả cuối cùng sẽ là sự tràn đầy, và nó tràn ra từ miệng của bạn. Nguyên tắc nầy được Chúa Jêsus nói đến trong Mathiơ 12 : 34 “ Bởi vì sự đầy dẫy trong lòng mà miệng mới nói ra”.

Khi lòng bạn được đầy dẫy đến nỗi tràn ngập thì sự tràn ngập xảy ra qua môi miệng của bạn bằng lời nói. Đức Chúa Trời muốn bạn không những chỉ có đủ, Ngài còn muốn bạn được tràn đầy. Chúa phán “ Sông nước hằng sống sẽ chảy từ trong lòng mình Đó là mục đích tối hậu của Đức Chúa Trời. Đây là 7 điều kiện để nhận lãnh sự đầy dẫy Đức Thánh Linh mà tôi đã tóm lượt:

1. Ăn năn

2. Chịu Báptêm

3. Cầu xin Đức Chúa Trời

4. Phải khao khát

5. Đến với Chúa Jêsus, Ngài là Đấng làm báptêm

6. Uống, nhận vào trong chính bạn

7. Dâng thân thể mình làm đền thờ cho Đức Chúa Trời và dâng chi thể bạn làm đồ dùng cho sự công bình.

Có lẽ bạn còn thắc mắt không biết làm thế nào để được tất cả điều nầy. Tôi muốn giúp đỡ các bạn bằng cách chia xẻ một lời cầu nguyện bao gồm những điều mà tôi đã giải thích cho bạn. Hãy đọc qua lời cầu nguyện của bạn, hãy đọc lớn tiếng với Chúa:

“ Kính lạy Chúa Jêsus, con khao khát được đầy dẫy Đức Thánh linh của Ngài. Con xin dâng thân thể của con cho Ngài làm một Đền thờ, và các chi thể của con làm những đồ đùng của sự công bình, nhất là miệng lưỡi của con là chi thể mà con không trị phục được. Con cầu xin Chúa hãy đầy dẫy lòng con và xin để Đức Thánh Linh của Ngài tràn ngập qua môi miệng con trong sông nước của sự ngợi khen và thờ phượng Chúa. Amen.

Nếu bạn chân thành cầu nguyện những lời trên, Đức Chúa Trời nghe và kết quả đang trên đường đến với bạn. Bạn sẽ vô cùng kinh ngạc về sự đầy dẫy của điều bạn sẽ nhận lãnh được. HALÊLUGIA.

 

Tác giả: Derek Prince

 



© 1999-2017 Tinlanh.Ru